Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 7

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
13. Bà Ma-xơ đàn


Cách nhà tôi khoảng ba cây số có một nhà thờ nhỏ. Tụi thằng Toàn hay rủ tôi đến đó xem các bà ma-xơ: đầu trùm khăn trắng đi qua đi lại, không thấy chân. Ðã nhiều lần chúng tôi nói với nhau, cái chân của bà ma-xơ phải nhỏ lắm nên bà mới giấu trong chiếc áo thụng lùm xùm. Nói là nhà thờ nhưng chỉ gấp đôi căn nhà tôi, cửa nẻo trống hoác không còn cánh cửa.

Bố tôi nói ngày xưa nhà thờ đẹp lắm, vôi trắng toát, hàng rào gỗ chạy dọc nhưng chiến tranh đã không chừa thứ gì. Rồi thời gian không được tu bổ, nó cũ kỹ và tàn úa.

Vùng tôi ở chỉ có một vài nhà theo đạo, người ta gọi họ là những con chiên. Vì con chiên ít quá nên cũng không giúp được gì nhiều, ngoài những lúc rảnh rỗi khỏi việc cày cấy, họ tụ tập sau nhà thờ phụ các bà ma-xơ cuốc đất. Các bà ma-xơ cũng như những người nông dân ở đây, họ trồng hoa, trồng rau, trồng lúa, chỉ có khác là họ làm việc trong khu đất của nhà thờ. Người dân ở đây gọi là "đất của ma-xơ". Ðất màu mỡ lắm, trồng cái gì cũng tốt. Hoa mọc từng luống đỏ chói.

Ngoài việc trồng trọt, các bà ma-xơ luôn ở trong nhà. Có cả thảy là bốn ma-xơ. Họ không nói chuyện với nhau, chưa bao giờ tôi thấy họ nói chuyện. Họ cứ im lặng đi ra đi vào.
Từ vùng ngoài khu đất ma-xơ, chúng tôi theo dõi họ. Họ có nhiều cái để nhìn. Ví dụ chiếc áo. Thông thường người ta làm ruộng với những chiếc áo xấu xí, thì các bà ma-xơ ngược lại, lúc nào cũng bận những chiếc áo trắng tinh, sạch sẽ. Họ giống những người dạo chơi trong vườn hơn là làm vườn.

Có nhiều lần tôi đi xuống nhà thờ một mình. Tôi thích vậy vì cảm giác vừa sợ vừa khoái trá khi chui vào một hốc kẹt rồi lắng nghe tiếng bước chân của các bà đi đi lại, mà không hề biết sự có mặt của tôi. Tôi ngồi cho đến khi mặt trời gần lặn, thế là sung sướng đi về.
Tôi phải công nhận với lũ bạn, các bà ma-xơ là những người khó hiểu nhất. Chúng tôi hay mò vào nhà thờ lúc các bà đang trồng trọt. Qua cánh cửa chính là một gian phòng rộng mênh mông. Ngoài cái bàn thờ lớn để trên bục ra, nhà thờ chỉ có vài hàng ghế và một cái hộp gỗ vuông. Tôi chưa bao giờ thấy một căn phòng rộng và trống trải như vậy. Sau gian phòng là những cái phòng nhỏ, nơi các bà ma-xơ ngủ. Gia tài của các bà là những cuốn sách dày và những bộ quần áo dài màu trắng. Bố tôi nói cái hộp gỗ vuông mà tôi thấy là cây đàn piano.

Những buổi chiều hoặc tối, các bà hay chơi đàn. Tiếng đàn vọng ra bên ngoài hàng rào nghe thật xa lạ và buồn thiu. Cả nhà thờ như chìm vào trong bóng tối, ngoại trừ tiếng đàn là lung lay, là động đậy. Cây đèn dầu đặt trên bàn thờ nhỏ xíu và đó cũng là nguồn sáng chính cho căn nhà.

Nhưng buổi chiều thứ bảy, các bà chơi đàn sớm hơn thường lệ, nên thằng Toàn hay rủ tôi đi xem. Qua cái lỗ tò vò, tôi thấy một bà ngồi đàn và ba bà ma-xơ còn lại đứng hát như trên sân khấu. Khi hát, thỉnh thoảng họ đưa hai bàn tay về phía trước rồi lại úp vào ngực. Cử chỉ đó luôn luôn không đổi trong mọi bài hát. Khuôn mặt các bà ngẩng lên cao, trang nghiêm, say đắm. Sau mỗi bài hát, họ cũng không nói chuyện với nhau. Người chơi đàn dạo qua bản khác như có sự thỏa thuận từ trước. Cuốn nhạc dày cộm đặt trên cây đàn, màu vàng úa được các bà lật nhẹ, thận trọng như sợ rách. Cử chỉ đó đã cho các bà một dáng vẻ khác người.

Chúng tôi thường bỏ về giữa chừng vì không còn cái gì để xem. Khi đến, các bà đã chơi đàn rồi và khi về các bà vẫn đang còn chơi đàn. Dầu vậy phải công nhận, các bà ma-xơ có cái gì đó đã lôi cuốn tôi kinh khủng. Cứ cách một vài hôm là tôi lại mò xuống nhà thờ. Ði quẩn quanh trong ngôi nhà trống hoác, rồi chui vào hốc kẹt khi thấy những cái bóng trắng thấp thoáng; hoặc nhìn các bà ma-xơ chơi đàn qua cái lỗ tò vò. Có hôm, tiếng nhạc du dương làm tôi ngủ lúc nào không hay, khi đang ngồi trong hốc kẹt. Khi thức dậy thì trời đã tối, các bà ma-xơ cũng không thấy đâu, tôi thấy nhà thờ như một lâu đài bỏ hoang trong những câu chuyện cổ tích. Dầu mọi ngóc ngách bên trong tôi đều biết, nhưng vẫn có một cái gì đó bí ẩn mà tôi cần phải khám phá thêm.

Mùa mưa năm đó kéo dài lê thê. Mẹ tôi nói chưa bao giờ thấy một mùa mưa dài như vậy. Cây ngoài vườn xanh mướt vì liên tục được tắm gội. Trong những trận mưa như vậy, tôi hay rủ thằng Toàn xuống nhà thờ. Chúng tôi chui vào góc kẹt quen thuộc, rồi lắng nghe tiếng mưa lẫn tiếng đàn. Tôi phát hiện ra một điều: những hôm mưa các bà luôn chơi đàn và luôn chơi hay hơn. Tôi đã tìm được một chỗ ngồi gần các bà nhất mà vẫn không bị phát hiện. Chỗ ngồi đó chỉ cách các bà một vách mỏng. Các bà ma-xơ đang vừa đàn vừa hát say mê.

Bỗng một bà đi đến chỗ chúng tôi ngồi, nói vọng qua lỗ tò vò:
- Ai đó, vào đi.
Vụt một cái, thằng Toàn nhảy phắt qua bờ rào chạy thoát. Tôi chạy theo nhưng vấp phải một vật gì đó, té nhào, nằm bẹp. Khi tôi ngóc đầu lên đã thấy đôi chân của bà ma-xơ đứng trước mặt. Ðó là một đôi chân nhỏ xíu, trắng hồng. Một đôi chân hoàn toàn chạm đất.
- Con có sao không? Ðừng sợ. Bà không bắt con nít bao giờ.
Tôi khóc òa. Bà dẫn tôi vào nhà, đặt ngồi trên chiếc ghế gần cây piano.
Một bà hỏi:
- Con có thích nghe hát không?
Tôi gật đầu:
- Nhưng bà đừng đến gần con, con sợ lắm đó!
- Rồi rồi, không sao cả! Các bà cười hiền hậu. Con có thể đến đây chơi bất cứ lúc nào con muốn.

Tôi khoe với thằng Toàn là đã quen với bà ma-xơ. Nó không tin. Nó còn thông báo với cả lớp rằng tôi đã nói xạo như thế nào. Thế là tôi phải dẫn bọn chúng xuống nhà thờ. Chúng tụ tập bên ngoài hàng rào còn một mình tôi đi vào bên trong. Tôi nắm tay ma-xơ Hiền, dắt ra phía trước rồi chỉ vào bọn chúng. Thế là bọn chúng ù té chạy quắn đít.
Từ đó chúng thần tượng tôi lắm. Chúng nhờ tôi cho chúng làm quen với các bà ma-xơ. Nhưng ngu gì, tôi nói là ma-xơ rất ghét con nít. Ðứa nào héo lánh sẽ bị bà lấy cù nèo móc giò.

Kể từ đó, vào ra nhà thờ chỉ độc quyền cho một mình tôi. Những buổi chiều rảnh rỗi, tôi đến thăm các bà ma-xơ, ngồi nghe họ hát. Những bài hát lạ lùng ca tụng về một nguồn sáng nào đó.
- Con có biết hát không? Ma-xơ hỏi.
- Có. Nhưng không giống những bài của ma-xơ.
- Chẳng sao cả!
Tôi hát bài "Người mẹ vĩnh cửu" mà bố tôi dạy:


Mẹ có đôi tay rộng lớn ôm cả thế
gian con nít.
Mẹ có đôi mắt màu xanh lơ lúc da
trời vừa đổ mưa xong.
Mẹ là hoàng hôn của một ngày luôn
luôn là buổi chiều.
Mẹ, mẹ tôi, người mẹ vĩnh cửu...

Có một lần tôi gặp thằng cháu ông lão ăn xin trong nhà thờ. Mặt nó vẫn vậy, vênh lên, nhưng đôi mắt không còn căm phẫn như tôi gặp lần trước. Vừa thấy tôi, nó bỏ đi. Tôi biết trong túi nó có hai hộp diêm.

Từ dạo phát hiện nó ngủ trong vườn, bố tôi bảo kệ nó, làm lơ cho nó. Thỉnh thoảng bố còn để một vài trái ổi dưới bụi lài. Bố chơi trò người lạ mặt. Có hôm tôi còn thấy bố ra vườn nhìn nó ngủ. Bố nói, nó là món quà của bố. Khi trồng một khu vườn mà không có ai đến thăm, không có ai yêu nó thì đó là một nỗi buồn hơn là niềm vui. Những buổi trưa, bố cấm ngặt tôi ra vườn. Bố để dành khu vườn cho nó. Tự dưng tôi thấy ghen tức. Tôi kể mọi chuyện cho thằng Tí nghe. Thế là chúng tôi làm một cái bẫy: cột những hộp lon với nhau rồi dẫn một đầu dây vào nhà. Khi nó xuất hiện dưới bụi lài, chúng tôi giật dây loạn xạ. Tiếng động vang lên khắp vườn và nó bỏ chạy trối chết... Hôm sau tôi thấy mặt mũi tay chân nó đầy vết xước, có lẽ bị gai cào khi chạy trốn. Chúng tôi ân hận vô cùng. Tôi hứa không tái diễn trò đó nữa. Nhưng cũng từ đó không thấy nó ghé lại nhà tôi. Bố tôi hỏi và tôi giấu biến. Tôi không có can đảm nhận lỗi về mình. Khi nhận lỗi, tôi thấy mình hổ thẹn nhiều lắm. Có nhiều lần tôi muốn bắt chuyện với nó, nhưng khi gặp khuôn mặt vênh vênh, tôi lại thôi.

Một lần khác tôi gặp nó lảng vảng trong nhà thờ hôm bà ma-xơ Hiền bị bịnh. Bà nằm thiêm thiếp trên chiếc gường gỗ. Người nhỏ thó như bị rút lại. Những ma-xơ khác đắp khăn ướt cho bà. Có người ngồi đầu giường đọc kinh.

Tôi đi ra dãy nhà ngoài thì gặp thằng cháu lão ăn xin đang lảng vảng bên chiếc piano. Nó chạm tay vào những cái phím rồi vụt bỏ chạy khi thấy tôi. Tôi đến ngồi trước chiếc đàn rồi cũng như nó, chạm nhẹ từng phím một. Những âm thanh vang lên khiến tôi nhớ mới hôm qua bà ma-xơ Hiền vẫn còn ngồi đây điều khiển chiếc đàn. Bây giờ không có bà, những bài hát như nằm sâu bên trong, không người đánh thức. Chúng sẽ ngủ mê mệt và quên cả thức dậy để ca ngợi sự du dương trầm bổng. Những bài hát trong cuốn sổ ố vàng đặt bên trên, khép lại, giơ cái bìa dán đầy băng keo. Như một đứa trẻ, người ta băng bó những vết thương cho nó.

Hai hôm sau tôi ghé lại, ma-xơ Hiền vẫn chưa hết bệnh. Tôi đến bên gường, nắm bàn tay nhăn nheo của bà:
- Ma-xơ Hiền ơi! Bà có nhớ cây đàn không?
Kê cái đầu cao trên chiếc gối, bà nhìn tôi, đôi mắt chớp chớp, mờ đục:
- Nhớ chứ con! Âm nhạc là một phần đời của bà.
Tôi nói:
- Con cũng nhớ lắm! Không có bà, cây đàn thật vô tích sự. Chúng chẳng biết hát, chẳng biết reo lên như khi bà chạm vào.

Tôi đi về nhà. Ðêm ngủ tôi mơ thấy chiếc piano gõ từng nhịp một. Những bài hát từ trong đó tuôn ra như dòng suối. Một giấc mơ toàn âm thanh. Khi tỉnh dậy vào lúc nửa khuya, tôi vẫn như còn nghe thấy tiếng đàn. Tôi đi nhẹ ra vườn, trèo lên cây vú sữa, nhìn về hướng nhà thờ. Tôi biết nơi đó những bài hát đang còn trong giấc ngủ, đang nằm trong những chiếc phím ngà chờ người đánh thức. Chờ ma-xơ Hiền.

Những ngày sau, căn bệnh của ma-xơ Hiền càng lúc càng nặng thêm. Chiếc áo như rộng hơn, thò ra những ngón tay khẳng khiu gầy rộc. Bà bảo tôi hát cho bà nghe bài "Người mẹ vĩnh cửu". Hát rất nhiều lần. Hát đi rồi hát lại. Lần nào nghe bà cũng khóc. Bà nói, bài hát nhắc bà nhớ tuổi thơ của mình. Bà lại nói, trong mỗi người già đều có một đứa trẻ được nuôi lớn lên.

Ba hôm sau, ma-xơ Hiền mất. Trước đó một ngày, ước nguyện chơi đàn lần cuối của bà đã được thực hiện. Hôm ấy, mọi người kéo đến đông lắm, đa phần là những người không có đạo, có cả bố tôi.

Bố nói:
- Chúng ta đến không phải để nghe nhạc. Chúng ta đến để đưa tiễn một con người.
Dãy ghế dài đã được ngồi kín. Người ta đặt ma-xơ Hiền lên ghế như cái cách đối xử với một đứa bé vừa yếu ớt vừa mệt mỏi. Rồi im lặng. Rồi thở dài. Người ta chờ đợi âm thanh cuối cùng từ ngón tay bà. Những ngón tay một lần cho tất thảy.

Sau này tôi được biết, những ngày cuối cùng của cuộc đời, ma-xơ Hiền bị mù. Bà đàn khúc nhạc "Người mẹ vĩnh cửu" trong bóng tối mờ mịt.


Mẹ có đôi tay rộng lớn ôm cả thế gian con nít.
Mẹ có đôi mắt màu xanh lơ lúc da trời vừa đổ mưa xong...

Những buổi tối leo lên cây vú sữa, tôi hay nhìn về phía nhà thờ. Tôi biết nơi đó có một cây đàn im lìm dưới bụi bặm, có những bài hát lặng lẽ trong giấc ngủ mê...

Bố tôi nói, âm nhạc chính là bà mẹ vĩnh cửu.



Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
14. Một lỗi lầm


Ngôi mộ ma-xơ Hiền nằm sau nhà thờ, đơn sơ nhưng lạ hơn những ngôi mộ khác, có một cái cây hình chữ thập cắm bên trên. Phía trước mộ có một ô vuông trải cỏ. Nhưng buổi chiều tôi hay ghé thăm chiếc đàn piano không có người chơi, rồi vòng ra sau thăm mộ ma-xơ Hiền. Tôi cũng có tặng ma-xơ một con dế thả vào ô cỏ vuông. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nó gáy dù nằm cạnh, áp tai xuống rất nhiều lần. Có lẽ nó đã bỏ đi. Những con dế không bao giờ hiểu được thế nào là tình cảm. Chúng vĩnh viễn mang hai chiếc càng chỉ để cắn nhau thay vì hôn nhau.

Từ dạo ma-xơ Hiền mất, nhà thờ trông buồn hẳn. Ba bà ma-xơ còn lại tối ngày lủi thủi trong phòng. Những buổi chiều, ba bà đứng hát cạnh chiếc đàn piano, hát trơ, không có người đệm. Chiếc ghế tựa đặt trước chiếc đàn vẫn còn nằm đó nhưng không có người ngồi, chừa ra một khoảng rộng. Có hôm tôi thấy ai đó đặt lên ghế bó hoa.
Bà ma-xơ Hạnh nói:
- Chúng ta hát bài "Vinh hiển thuộc về Người" nhé!
Xong bài đó, lại nói:
- Chúng ta hát bài "Nguồn sáng đời đời" nhé!
Họ lặng lẽ hát rồi lặng lẽ nói. Những bài hát không trôi chảy như trước, cứ phải ngắt giữa chừng bằng những câu nói như vậy.

Tôi đứng giữa căn phòng trống nhìn các ma-xơ qua chiếc đàn piano màu đen. Khuôn mặt ma-xơ Hạnh không buồn không vui, nhưng giọng nói yếu hẳn. Có hôm tôi thấy ba bà ma-xơ đứng hát trước mộ ma-xơ Hiền. Họ hát bài "Vinh hiển thuộc về Người". Bài hát tôi đã được nghe đi nghe lại nhiều lần nên thuộc, có một số đoạn như vầy:


Người đã ra đi trên những lối cỏ
tươi để lại dấu chân.
Chúng tôi yêu những dấu chân vì
nó đã thuộc về Người.
Và vinh hiển thuộc về Người trong
từng ngọn cỏ.
Trong mỗi buổi sáng, tôi biết Người
đã đi qua trên những vết sương...

Tôi đi vào nhà thờ và nhìn cây đàn, tưởng tượng ma-xơ Hiền đang ngồi ở đó rồi rùng mình bỏ chạy. Tụi thằng Toàn nói, ma-xơ Hiền đã thành ma rồi. Người chết đều thành ma cả. Họ sẽ luôn hiện về bên những gì mà lúc sống họ yêu mến. Và từ đó tôi luôn có cảm giác ma-xơ Hiền đi theo tôi.

Buổi tối tôi trùm kín chăn và từ từ thò một bàn tay ra ngoài, huơ huơ xung quanh rồi rụt tay lại. Một hôm tôi đang làm như vậy thì chạm phải một bàn tay, thế là hét ầm cả lên. Thì ra là mẹ tôi. Mẹ có đôi bàn tay thật giống ma-xơ Hiền, những ngón tay tròn nhỏ, mát dịu. Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng có hai con người trong bàn tay đó, cả hai con người đều dịu dàng.

Có hôm tôi cảm thấy như cây đàn piano đang dạo bài "Người mẹ vĩnh cửu". Tôi hỏi có phải ma-xơ Hiền không? Không có tiếng trả lời. Tôi vụt chạy ra phía trước cổng thì bắt gặp thằng cháu lão ăn xin đang đi vào. Mặt nó vênh lên, tóc dựng ngược. Nó không nhìn thấy tôi.

Thế là tôi đi theo nó vòng ra ngôi mộ của ma-xơ Hiền. Thằng này đang làm trò gì mà lén lút vậy. Nó nhìn trước nhìn sau không thấy ai, vội lấy hộp dế ra. Nó đào một cái lỗ trên ô cỏ vuông trước mộ ma-xơ Hiền rồi chôn cái hộp diêm vào đó. Sau đó lấp đất lại, trồng hai cây cỏ lên.

Tôi vòng ra trước mặt nó, bất ngờ hét to:
- Tao bắt gặp mày rồi. Mày đang làm cái gì?
Thằng kia té bật ngửa vì hoảng sợ. Khi nhìn thấy tôi, nó lấy lại bình tĩnh rồi mặt vênh lên như cũ:
- Kệ tao. Tao làm gì mắc mớ gì mày?
Nó lấy tay che chỗ đất vừa đào. Nhưng làm sao giấu được con mắt "thần" của tôi. Tôi nói:
- Mày làm như tao không biết á. Con dế bên dưới chứ gì. Tao chỉ cần ngửi mùi là đủ biết. Hay vậy đó!
Nó gân cổ cãi lại:
- Kệ tao! Tao làm gì mắc mớ mày?
- Hôm trước tao thấy mày rình rình đi theo đám ma ma-xơ Hiền, tao đã nghi rồi. Tao cấm mày không được tặng dế chết cho ma-xơ Hiền. Nếu không, tao sẽ méc ma-xơ Hạnh rằng mày đến đây mày phá...
- Tao phá hồi nào? Lúc trước ma-xơ Hiền còn cho tao mấy trái mãng cầu nữa kia...
- Hóa ra là mày đã ăn trái mãng cầu mà tao đem đến cho ma-xơ...
- Ừ đó, làm gì tao.
- Cái đồ tham ăn!
- Tham ăn đó, làm gì tao!
Tức điên cả người, nhưng suy nghĩ mãi tôi vẫn không biết mắng nó cái gì cho hả dạ. Ai đời bao nhiêu đồ ăn ngon tôi đem đến cho ma-xơ Hiền lại chui vào bụng nó, còn gì là thể diện trước mặt tụi thằng Toàn nữa chứ!
- Hứ - Tôi chợt nhớ ra - Cái đồ ít tiền mà cũng bày đặt mua vườn. Tao còn biết ông mày có một cọc tiền nữa kia!
Không hiểu sao, thằng kia đứng ngớ người một hồi, rồi mặt đỏ bừng lên. Cuối cùng như dồn hết hơi, nó mới bật được thành tiếng:
- Ðồ mách lẻo! Ðồ rình mò! Mày tưởng tao sợ mày à? Tao không sợ thằng nào hết!
- Tao cũng không sợ mày - tôi nói - mày chỉ cần đụng ngón chân út của tao thôi, tao sẽ đánh mày ngay.
Nó lườm lườm nhìn tôi, sau cùng nó lục túi lấy ra hộp diêm, thảy lên bãi cỏ:
- Tao trả con dế cho tụi mày đó. Tao không cần nữa. Tụi mày chỉ bắt nạt người khác thôi. Tụi mày ỷ có khu vườn, tụi mày đuổi tao đi. Mai mốt ông cháu tao có khu vườn rồi thì tụi mày sẽ thấy. Nó sẽ lớn hơn ngôi nhà tụi mày. Dế sẽ thả đầy nhung nhúc. Tao sẽ không bao giờ nuôi những con dế chết đâu. Tao chẳng bao giờ cần con dế của tụi mày nữa đâu!
Nói xong, nó đào hộp dế dưới đất lên, phủi sạch, bỏ vào trong túi. Cái mặt vênh vênh hung hãn, rồi bỏ đi. Vừa đi vừa đá dọc đá ngang những bụi cỏ. Sau cùng mất hút dưới cánh cổng nhà thờ.
Còn lại một mình, tôi nhặt hộp dế lên rồi mở ra. Con dế ngơ ngác một hồi rồi nhảy vụt qua kẽ tay tôi. Ðôi cánh đen muốt.

Tôi về nhà. Vừa thấy tôi, bố đã hỏi:
- Con làm sao vậy?
- Con đã lỡ đòi lại món quà mà con đã cho.
- Người đó có lỗi với con lắm à?
- Không, bố à. Chẳng có lỗi gì.
- Thế thì con phải xin lỗi họ thôi.
- Con sẽ không bao giờ xin lỗi nó.
- Nếu vậy, bố sẽ rất xấu hổ vì con. Và con cũng sẽ rất xấu hổ khi gặp lại nó.

Hai hôm sau tôi mò xuống chợ. Tôi cũng không biết có nên xin lỗi thằng đó không. Xin lỗi thì thấy kì quá. Nhưng tôi cũng muốn biết bữa giờ nó như thế nào.

Ði lên đi xuống vẫn không gặp, cả mấy cái sạp cũ họ hay ở cũng không thấy, cuối cùng đành quay về. Tôi nghe con Phượng nói ông cháu lão ăn xin đã đi rồi. Chẳng biết họ đi đâu. Tất nhiên không phải về quê mua vườn. Với xấp tiền đó, ít nhất phải một trăm xấp mới mua được. Vậy thì họ đi đâu? Thằng Toàn nói có lẽ họ đi vùng khác, nhưng chắc chắn không đi được xa vì thấy ông lão yếu lắm, đôi chân run rẩy dữ dội mỗi khi bước đi.
- Chẳng biết thằng đó có đem theo con dế tụi mình cho không?
Tôi im bặt khi nghe thằng Toàn nói. Tôi không dám kể cho nó nghe vì sợ nó xem thường mình. Nhưng tôi vẫn hy vọng, hy vọng tìm thấy họ bởi một sự vô tình nào đó.

Những lều bạt, những ván chợ bỏ hoang khiến tôi bơ vơ một lúc. Dọc theo con đường cái, tôi đi miết. Hình như khi đi theo một con đường thì tôi sẽ không bao giờ dừng lại được nữa, vì con dường cứ kéo dài ra mãi, ra đến muôn trùng.

Ông lão ăn xin sẽ dừng ở đâu? Có lẽ ông lão sẽ đi cho đến hồi không thể đi được. Nơi đó sẽ là nơi ông lão dừng lại. Vậy thì bao giờ ông mới đi ngược trở lại để về quê nhà, để tôi còn có cơ hội gặp lại cháu ông? Có lẽ lúc đó tôi sẽ đủ can đảm để xin lỗi nó. Tôi sẽ dẫn nó về nhà và cho nó một con dế khác. Nó sẽ không còn vênh mặt lên nhìn tôi nữa, mà sẽ nói: "Tao đã quên rồi".
- Có thật không? Tôi hỏi lại.
Nó nói:
- Mày có đáng gì để tao nhớ chứ!
Thế là bọn tôi gây lộn với nhau.
Nhưng tất cả chỉ là tưởng tượng thôi. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ nó không thể quên được chuyện đó.
Trên đường dẫn ông lão đi, hẳn nó sẽ nói:
- Bọn chúng đều xấu cả. Bọn chúng tranh giành những con dế, những khu vườn với con.
Rồi hai ông cháu họ vui vẻ dấn bước. Càng đi, họ càng rời xa tôi mãi, càng bước gần hơn với khu vườn của họ. Tôi vĩnh viễn đứng bên đây, hun hút xa cùng với nỗi ân hận.

Bố tôi vẫn nói, khi nhìn theo bóng một người mà ta không thể quên được, chúng ta sẽ thấy "nỗi nhớ" của mình.


Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
15. Những ngày bình thuờng


Mùa mưa ẩm thấp lại đến. Những cơn mưa đêm lướt qua, vừa lạnh lẽo vừa ồ ạt. Bằng cái màu trắng của mình, chúng đã biến đổi cả một khoảng trời trong giấc ngủ tôi

Tôi hay sang nhà chú Hùng, chui vào cái ụ rơm như một con chim chui vào cái tổ. Tôi cũng hay tưởng tượng mình sẽ mọc cánh, những cái cánh dài vừa vặn với thân thể của tôi. Một buổi chiều đầy gió tôi bay về phía cuối bầu trời. Nơi đó có những đám mây mang gương mặt của bé Thương.

Vào ngày nắng, tôi xếp đôi cánh vào cái sọt nhỏ để dưới gầm gường của mình. Hàng đêm đôi cánh vẫn cứ mọc dài và ngúc ngoắc.

Trong những giấc mơ lơ đãng, tôi cũng có một đôi cánh khác. Ðó là những đôi cánh vải mềm và trong suốt đưa tôi đi. Nhưng tôi cũng biết trong những giấc mơ, tôi có bay cao xa cũng không ra khỏi khu vườn. Tôi đã hiểu thế nào là một khu vườn rồi. Tôi cần đi đến một nơi khác khu vườn tôi đã có. Tại sao không chứ? Mẹ tôi nói, khi một đứa trẻ lớn lên, chúng cần biết nhiều điều bên ngoài khu vườn. Mẹ đã hé cho tôi thấy một khu vườn không bao giờ đủ cho một đứa trẻ.

Tôi đã âm thầm vùi bốn củ khoai vào tro nóng mỗi đêm. Tôi sẽ làm công việc đó liên tục hàng ngày. Một ngày nào đó, chắc chắn nó sẽ đến, khi cảm thấy đủ sức rời khỏi khu vườn, tôi sẽ có bốn củ khoai nóng mà đem theo.

Nhưng mùa mưa cứ dai dẳng và âm ỉ khiến sự chờ đợi của tôi mòn mỏi dần và tôi quên nó. Một ngày nọ bỗng nhớ đến, ôi thôi, củ khoai đã thành tro rồi còn đâu. Tôi cười xòa rồi quên cái ý định ra đi. Thành thật mà nói, với bốn củ khoai đó, tôi chỉ có thể xa mẹ đúng một ngày. Một củ cho điểm tâm, ba củ còn lại dành cho sáng, trưa và chiều. Tôi chưa bao giờ có thể xa mẹ hơn thế nữa. Tôi đành giấu kín chuyện này, xem nó như là một bí mật của đời tôi.

Từ ngày không được làm bố, chú Hùng ít ghé nhà tôi. Mẹ tôi nói, chú muốn lao vào công việc để quên bé Thương. Tờ mờ sáng, chú đã vác cuốc ra đồng cho đến tối mịt mới trở về. Cô Hồng đã đi làm lại. Cô có vẻ hơi ốm, chiếc áo dài màu xanh trông rộng hẳn. Khuôn mặt gầy gầy, âu lo. Tôi hay sang thăm cô vào mỗi buổi chiều, phụ cô làm một cái gì đó. Cô đã đan xong chiếc nón cho tôi như đã hứa. Những hôm mưa, tôi đem ra đội và ngồi thu lu nhìn ra khu vườn trong hơi ấm từ chiếc nón phả ra. Tôi thấy ấm lòng hẳn. Tôi hay nghĩ ngợi nếu có bé Thương, chắc cô Hồng sẽ đan cho nó nhiều cái như vậy, những chiếc nón thật đẹp. Nếu là con gái sẽ thêm nhiều cái tua, những tua xanh đỏ như tôi vẫn thường thấy người ta bán ngoài chợ.

Một ngày lạ, vườn tôi bỗng xuất hiện loài hoa mới, cánh vàng nhụy trắng. Tôi âm thầm chờ đợi nó lớn lên, âm thầm nâng niu như một đứa trẻ. Những bông hoa lạ luôn gây cho tôi cảm giác ai đó đã ghé khu vườn lúc tôi đang ngủ. Họ ngồi chờ mãi không được, đành gieo mầm hoa xuống đất rồi bỏ đi mà không kịp gởi gấm hãy chăm sóc giùm tôi, hãy tưới nước ngày ba lần.

Bố tôi vẫn nói phần thưởng cho người làm vườn là hoa quả.
Cuối mùa mưa, cây hoa đó nảy ra nhiều nhánh và hạt của nó đã mọc ra nhiều cây con. Tôi đã hái tặng cô Hồng đóa hoa đẹp nhất, vào một ngày đẹp nhất. Cô trìu mến nhìn tôi. Ngay cả đêm về, co mình trong chăn, tôi cũng không thể nào quên được ánh mắt ấy. Ðó là cái nhìn của một người mẹ dành cho con. Tôi đã ngủ suốt đêm ngon giấc chỉ vì cái nhìn đó.

Sáng ra, cảm giác là lạ choáng váng cả phòng. Một bàn tay ai đó đang nắm cái chân tôi, giọng nói quen quen:
- Ai đang "nướng" trong cái mền vậy cà!
Tôi hét lớn:
- Chú Hùng!
Chú cười sằng sặc dưới cái chân tôi.
- Tại sao chú không báo trước cho cháu biết chú sẽ sang đây? Cháu sẽ thức nguyên đêm chờ chú.
- Ðể làm gì vậy cà! Ai mướn vậy cà! - Chú cười khùng khục.
Lâu lắm rồi tôi quên luôn cái cảm giác ôm cổ chú, cái cần cổ của người anh hùng, to lớn, vững chãi.
Tôi nói:
- Lâu rồi, cháu chưa được ôm cái cổ của chú. Chú cũng không chịu ăn cái chân của cháu nữa.

Mẹ tôi nói khi chú Hùng sang đây tức là chú đã nguôi ngoai chuyện bé Thương.

Không có nhận xét nào: