Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 9

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
18. Ông lang vườn


Ngày xưa, ông lang vườn không ở đây. Ông là người xa xứ, một xứ sở nào đó xa xôi mà tôi không bao giờ biết được. Ông đến làng tôi ở khi tôi còn chưa ra đời. Mẹ tôi kể, ông đi vì một nỗi buồn nào đó. Rất tuyệt vọng rồi ông ghé ngang làng tôi. Ông cứu sống được lão Bình trong một lần bị ngộ độc rượu. Từ đó, ông ở lại làng này bốc thuốc. Nhà ông trồng đầy thuốc nam.

Bố tôi nói người ta không thể chết trên khu vườn đầy thuốc. Mà đúng vậy. Ông rất già, già lắm, má hóp lòi cả sọ. Ông bới một củ tỏi sau gáy và đêm đêm xõa ra như một con ma. Không ai biết gì về thời trẻ của ông, ông sống ở đâu, làm gì và tại sao nỗi buồn lại ngự trị trong người ông như vậy. Bố tôi nói, một ông lang vườn chỉ giỏi khi về già. Cái làng này hóa ra là một kẻ hưởng lợi từ cái nỗi buồn may mắn ấy. Ông già quắt queo rồi còn gì.

Nhà ông hay vương vấn mùi thuốc nam. Thay vì đốt trầm như những cụ già xưa, ông đốt thuốc nam rồi ngồi nhâm nhi ly trà trong bóng tối. Ít khi nào thấy ông ra ngoài, ngoài những dịp đi bốc thuốc hoặc ghé chợ mua những thứ lặt vặt gì đó.

Một đôi lần tôi thấy ông cuốc đất sau vườn, cái lưng cong vồng như một bó tre bị đọi. Những ngày tháng ở làng, chẳng khi nào tôi thấy ông vui hoặc buồn, một khuôn mặt kỳ dị nhất mà tôi thấy. Tôi được nhìn gần khuôn mặt ấy cũng chỉ một lần. Ðó là lần tôi bị sốt nặng, mẹ đã ẵm tôi đến nhà ông. Ông vỗ vỗ, bấm vào cái bụng tôi, bấm vào cái tay tôi, bóp miệng tôi bảo thè lưỡi ra, thế là xong. Một kiểu khám bệnh kỳ cục. Sau đó đưa cho mẹ tôi một đống thuốc gói trong giấy báo. Nhưng kỳ diệu lắm, chỉ một vài lần uống, tôi đã hết hẳn. Mẹ sai tôi sang biếu ông mấy nải chuối. Tôi vào cửa sau, tranh thủ lúc ông ra vườn, để nải chuối lên bàn rồi chuồn thẳng. Với một con người kỳ dị như vậy, tôi không thể gặp khi chỉ có một mình. Tôi sợ.

Mẹ tôi nói, điều quí giá nhất của một thầy thuốc là cái tâm. Cái tâm là một cái vô hình, khi làm điều tốt thì nó hiện ra, khi làm điều ác thì nó biến mất. Nó là cái cần thiết quí giá nhất, hơn mọi thứ.

Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái tâm của ông.

Nhà thằng Tí vắng hoe. Tôi chạy ra đồng. Có lẽ bố mẹ nó đang ở ngoài đó. Họ vừa làm lụng, vừa kể chuyện vừa cười. Họ không hề biết rằng tôi đang đem đến một tin xấu cho họ. Tôi bắt đầu sợ chuyện này. Tôi còn nhớ khuôn mặt của chú Hùng khi con chú đang bị nguy hiểm. Chú đã khóc òa trên vai bố tôi như một đứa trẻ. Chú phải ra đồng ngồi một mình. Chú phải cố gắng cày cuốc để quên đi.

Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến những người sơn đông mãi võ. Tại sao không gọi họ chứ, họ có những viên thuốc thần kỳ, họ nuôi những con rắn thì họ phải có những viên thuốc để trị nó. Tôi cứ vừa chạy vừa mê mải trong ý nghĩ như vậy.

Bãi đất chợ hồi sáng chật kín người, bây giờ đã vắng hoe. Những người sơn đông mãi võ đã cuốn gói đi rồi. Họ nhét những bà vợ, những đứa con, những bồ lát bịt kín, những cây giáo dài mà họ dùng để đâm vào cổ, những viên thuốc kỳ diệu... vào trong xe rồi thúc ngựa chạy đi. Tiếng vó ngựa khua dậy cả bầu trời với bụi mù theo dấu xe họ. Họ đem theo phép màu về một phương nào đó làm sao tôi biết.

Tôi nhớ những câu chuyện của mẹ về những đàn ngựa bay đêm qua núi đồi, trên mình chúng là những kỵ sĩ mặc áo giáp. Dưới ánh trăng, những nút khuy đồng lóe sáng ngang dọc những đường gấp khúc như một đêm sao sa hỗn loạn. Những kỵ sĩ đã đi lạc trong chính ánh sáng của mình. Những con ngựa trở nên điên cuồng, chúng rượt đuổi nhau hí vang, giương những chiếc vó bổ vào đám mây. Rồi cả người ngựa trôi tuột dần về phía cuối bầu trời. Cuối cùng va vào nhau, vón cục thành một khối cầu lửa. Ðó là mặt trời của ngày hôm sau.

Bần thần một lúc tôi quay trở lại tìm mẹ thằng Tí nhưng chẳng thấy đâu, đành ghé nhà ông lang. Lúc này hàng xóm kéo đến đông nghẹt.

Tôi lách mình vào trong nhưng không được, chỉ thấy thấp thoáng bên cửa sổ khuôn mặt thằng Tí xám ngoét, mái tóc rũ xuống mặt ván, sau đó đung đưa những ngón tay đùa gió.

Nó đang ngủ, một giấc ngủ trương phồng. Càng ngủ, người nó càng phồng. Mẹ nó đang ôm mặt khóc ngoài sân. Bà kể về nó, nó ăn làm sao, nó nói những gì, nó cười như thế nào, cả những mơ ước của nó được có một bầy bò. Rồi những lần nó vô lễ, bà đã đánh nó bao nhiêu roi. Hóa ra bà cứ nhớ từng ly từng tí như vậy.

Tôi đứng lặng im nhìn bà. Bất ngờ bà ôm chầm lấy tôi, bà nắm lấy bàn tay tôi rồi rồi áp vào mặt mình. Bà kể về bàn tay của nó.

Thế là tôi òa lên khóc. Tôi cũng kể về nó. Nó đã ngủ trong vườn lài. Nó nói rằng đừng cho ai biết nó đang ngủ, nhưng cuối cùng tôi đã nói với bố tôi. Tôi đã không giữ lời hứa bởi vì tôi sợ.

Buổi chiều hôm đó tôi chui vào góc tối của mình. Chưa bao giờ tôi nhớ nó đến vậy. Tôi nhớ năm nọ nó rớt xuống sông, bố vớt nó lên và nó đã mang đến những trái ổi chín trong túi ni-lông. Khi bố cõng hai đứa, nó không được phép ôm cái cổ. Rồi đoàn sơn đông mãi võ đến, nó lại nhường cho tôi một cái dùi đánh trống. Nó chẳng hề giành giật với tôi cái gì.

Thế mà hôm nay nó lại nằm im lìm bên nhà ông lang.

Tôi thấy ông đi ra đi vào lắc đầu nhiều lần. Cái lưng còng xuống, trên đầu mái tóc bạc phơ xổ ra như một chiếc khăn nhàu nhĩ.

- Ðã muộn mất rồi! - Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ ông sẽ nói cái điều không ai chờ đợi.
Mẹ sẽ về cắm ba cây nhang dưới bụi lài.
- Dù sao chỗ đất đó, thằng bé cũng đã nằm một lần. Mẹ sẽ nói vậy.

Ðêm đó, ông lang cũng sẽ lẳng lặng ra đi không mang gì ngoài một túi vải mà năm xưa ông đã mang đến. Cũng không ai biết ông đã đi đâu, về đâu. Lúc nào người ta cũng chỉ đoán chừng về ông mà thôi.

Mẹ tôi vẫn hay nói, nỗi sợ lớn nhất của một người thầy thuốc là khi để mất một đứa trẻ. Người già có thể chết, nhưng trẻ con phải cần sống và lớn lên. Bởi đơn giản, chúng là một mảnh vườn phải được cày xới và chăm bón. Chúng cần phải ra hoa và sinh sôi. Chúng là tất cả những gì mà người già hy vọng...

Rồi tôi cứ miên man nghĩ về đám tang thằng Tí, sẽ rơi vào một ngày im gió, oi nồng nào đó. Mặt trời chói chang đổ lửa báo hiệu một mùa hạn hán kéo dài triền miên trên mặt sông, trên cánh đồng, và nặng nề nhất là trên thân thể của chúng tôi.

Từ nửa đêm, người ta sẽ đánh trống và gõ những chiếc phèng la. Âm thanh nghe âm u và buồn. Những âm thanh đó, một lần nữa sẽ lại gợi cho tôi nhớ về hình ảnh của những người kỵ sĩ cỡi ngựa qua bầu trời. Họ đi loan báo một điều gì đó, có thể là một tin buồn cuối ngày. Vì những tin buồn nên không ai ra nhận. Người ta chui vào nhà, đóng sầm cửa lại và ngủ. Cuối cùng những kỵ sĩ trong cuộc tìm kiếm hỗn loạn đã va vào nhau.

Buổi sáng, mẹ tôi sẽ ra vườn hái hết những bông hoa lài rồi đưa sang cắm vào bàn thờ thằng Tí - xem như một món quà đầy hương từ khu vườn nhà tôi.

Có một việc khiến ai cũng lo lắng là chuyện những tấm ảnh, tất nhiên rồi sẽ vậy.

Ở làng có ai chụp hình gì cho nhiều, quá lắm là dăm ngày Tết chụp chung với cả nhà một kiểu. Nhưng đâu phải năm nào cũng chụp. Lục trong đống giấy tờ cũ, cuối cùng người ta cũng sẽ gặp tấm ảnh duy nhất lúc thằng Tí lên ba tuổi. Nó trần truồng như nhộng. Vừa khóc, vừa lấy ngón tay đút vào miệng. Tôi đã được xem tấm ảnh này một lần, nhờ nó khoe.

Mẹ nó sẽ òa lên nhớ lại vào ngày giỗ ba, cậu nó dắt về một ông thợ ảnh. Khi ông đến thì nó đang còn ngủ, thế là người ta đập nó dậy, cho nó một "pô". Khuôn mặt nó non xèo, phúng phính những thịt chứ không gầy nhom như sau này.

- Thôi thế cũng là may mắn - mọi người sẽ nói vậy - Dù sao cũng còn một hình ảnh về nó vào thời điểm đẹp đẽ nhất.

Chiếc hòm cũng sẽ được đóng xong từ bộ ván mà hàng ngày nó vẫn nằm ngồi, nhỏ nhắn như một cái thùng đựng quần áo. Rồi người ta sẽ xếp nó vào trong như chúng cất một món đồ quí giá, dễ vỡ.

Mà quả thật như vậy. Từ lúc nghĩ rằng nó sẽ chết, tôi cứ thấy mình như vừa mất một cái gì quý giá lắm. Nó là vật quí đối với tôi.

Tôi luôn nghĩ về những ngày sắp tới, tôi sẽ đi học một mình, xuống chợ chơi một mình, không có ai để hẹn hò len lén trèo lên cây vú sữa vào nửa đêm.

Nhưng tôi cũng sẽ sợ nó lắm vì nó sẽ thành con ma. Nó là một con ma trẻ em. Nó vẫn còn ham chơi nên sẽ không bao giờ rời khỏi những nơi nó vẫn thường đến để bắn bi, nhảy lò cò... Tôi cũng sẽ không còn dám để một hòn bi nào ra đất, tôi sợ hòn bi bỗng dưng tự lăn rồi chui vào lỗ. Tôi cũng không dám ra vườn một mình. Tôi sợ những bông hoa lài bỗng dưng thơm hẳn lên.
Từ bên đây ụ rơm, tôi sẽ nhìn vào nhà nó. Rồi từ đó, tôi mon men theo đám tang ra đồng, cứ đi cách một quãng xa.

Khi đi ngang nhà ông Tư, người ta sẽ đi chậm lại rồi đánh trống lớn lên, để cho ông biết mà ráng chồm lên cửa sổ đưa tiễn nó lần cuối.

Ðám tang vẫn sẽ tiếp tục đi nốt những con đường trong làng và cũng giống như những người kỵ sĩ, từng bóng người đưa tiễn như một vệt buồn lướt qua khoảng trời của tôi.

Tôi nhớ lời bố nói, khi nhìn theo bóng một con người mà ta không thể quên được, ta sẽ thấy nỗi nhớ của mình.

Hình như ai cũng vậy, không phải mình tôi tưởng tượng chuyện này. Cho nên khi nét nhọc nhằn trên khuôn mặt ông lang vườn giãn ra, nhiều người đã oà khóc. Người ta khóc vì sung sướng. Hình như người ta chỉ có thể khóc một cách trọn vẹn nhất nhờ sung sướng.

Tôi cũng vậy. Tôi đã khóc khi thấy đôi mắt thằng Tí nhấp nháy một gợn vào chiều hôm đó. Tôi đã ôm lấy bàn tay mềm nhão của thằng Tí vào lòng mình, cái bàn tay như vừa mới được sinh ra lần đầu nên nó có cái vẻ dịu dàng và dễ bị tổn thương. Tôi còn gọi tên nó rất nhiều lần như thể chưa từng được gọi trước đó, chưa từng nghe âm thanh đó. Không chỉ thế, tôi còn òa khóc vì nghĩ rằng những âm thanh đã không rời bỏ chúng tôi.

Bố tôi nói, người sống là một âm thanh nên khi sống, người ta sẽ gây nên tiếng vang bằng chính cuộc sống của mình.

Ba hôm sau, thằng Tí đã có thể ngồi dậy tự ăn cháo. Cái câu nói ấp ủ trong ba ngày qua đã được tôi chuẩn bị chu đáo cho cái ngày này:
- Hi hi... chào con rắn hai đầu!

Thằng Tí thều thào cãi lại:
- Chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi!

Và chúng tôi thỏa thuận với nhau, nếu con rắn hai đầu còn ở đâu đó trên thế gian này thì, khi đầu "tử" vừa phập mình một nhát thì đầu "sinh" sẽ phập nhát thứ hai để cứu mình sống. Thế là sống khỏe, sống nhăn, cho phập thoải mái.

Ðêm đó tôi nghe bố nói thầm với mẹ "Thôi, chắc anh phải sửa lại một số chuyện cổ tích". Bố làm như bố là ông tiên không bằng.

Nhưng nói gì thì nói tôi vẫn mừng húm, mừng nhất không phải chuyện thằng Tí còn sống mà vì khi tôi ôm tay nó khóc, nó vẫn còn mê man. Còn tụi con Phượng thì không có mặt. Chứ không à, chúng nó sẽ lên lớp diễu lại trò này bêu riếu tôi. Vừa nắm tay thằng Tí vừa hu hu rên rỉ, Tí, Tí ơi, Tí ơi Tí... chắc tôi chỉ còn nước đi tìm hai con rắn lốm đốm nhờ nó cắn mình một phát cho tiêu đời mất thôi. Thật là hú vía!


Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
19. Thay đoạn kết


Hàng đêm, tôi vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ vừa "nhìn" ra khu vườn vừa tưởng tượng. Tôi biết mình sẽ không bao giờ quên được, vì tôi vẫn còn nhớ lắm.

Tôi nhớ tất cả những gì đã bay qua bầu trời của tôi.

Tôi nhớ từng bông hoa, từng mùa mưa nắng, từng rẻo đất...

Bố tôi nói cần phải gieo những hạt mầm vào khu vườn; nhưng tôi cũng biết, mỗi một gương mặt là một hạt mầm gieo vào trí tưởng tượng của tôi. Tôi có nhiều khuôn mặt không ngừng mọc lên, những khuôn mặt buồn vui, những khuôn mặt đẹp nhất.

Nhiều lần tôi đã hỏi bố, tại sao người ta không nhớ một bàn tay ai đó mà phải là khuôn mặt trước tiên. Bố nói bởi vì trên đó có đôi mắt. Chúng ta không thể nhìn ai đó mà không nhìn vào đôi mắt họ. Một đôi mắt sẽ cho ta biết họ yêu mến điều gì, và quan trọng hơn nữa, họ đã hy sinh cho điều gì.

Hằng đêm, tôi vẫn tưởng tượng triền miên khi nhìn những ngôi sao. Người ta nói khi một người mất đi, ngôi sao của người ấy sẽ tắt. Tôi hú vía vì vẫn thấy ngôi sao của bạn tôi trên bầu trời, càng lúc càng rực rỡ chạm dần đến ngôi sao của tôi. Và tôi vẫn không ngừng tưởng tượng đến một lúc nào đó, bầu trời sẽ như một tấm thảm sáng kết liền lại. Vì đơn giản thôi, trên trái đất này trẻ con vẫn không ngừng được sinh ra và lớn lên. Chúng là những ngôi sao trên tấm thảm kia, điều bí mật mà tôi chẳng thể nào nói hết.



Hết

Sài Gòn - những ngày cuối tháng năm


Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 8

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
16. Những người lạ


Quê tôi thỉnh thoảng hay có một đoàn sơn đông mãi võ ghé sang. Họ đi một đoàn khoảng chục người trên một chiếc xe ngựa kéo. Phía trước cắm lá cờ đầy chữ Tàu, lại vẽ rằn ri những hình thù kỳ dị. Họ treo bên hông xe những cái bồ lát bịt kín. Ði đến đâu, gây huyên náo đến đó bằng tiếng phèn la, tiếng rao ơi ới... Họ mang theo cả những bà vợ, những đứa con. Người lớn thì ngồi bên ngoài, trẻ con được lèn chặt bên trong cùng những cái thùng, có khi cả mùng mền chiếu gối đổ sập lên đầu chúng. Lâu lâu bọn trẻ khóc ré lên, thế là bà mẹ dí cái đầu nó ra ngoài cho nhìn một chặp. Hết khóc lại kéo tuột vào trong. Mẹ tôi kể ngày xưa họ đi đông lắm, càng ngày số lượng người càng ít dần, lâu lắm mới ghé lại.

Có rất nhiều đứa trẻ được nuôi lớn lên trên chiếc xe ngựa như vậy. Còn nhỏ chút xíu, chúng đã biết cho ngựa ăn. Ba tuổi đã cầm ca đi bán thuốc, lẫm chẫm theo người lớn. Những đoàn ít người hơn thì đi đến đâu tìm thêm người đến đó. Họ dụ dỗ trẻ con hay lắm, có nhiều đứa bé đi theo, thế là quên cả đường về.

Ðây là lần đầu tôi thấy họ. Họ quây một góc chợ bằng những tấm bạt cho trẻ con có chỗ nằm ngồi, sau đó dọn dẹp một miếng đất trống lớn hơn, cắm cây cờ chính giữa. Những cái bồ lát bịt kín được đem bày ra. Con nít bu đen, họ cấm ngặt.
- Ê, thằng kia, tránh ra. Mày có biết cái bồ đó chứa gì không? Rắn độc, rắn độc đấy!
Thế là cả bọn hoảng kinh lên.
Tiếng nói của họ ồm ồm như sấm. Khuôn mặt đầy râu bặm trợn, tay chân vạm vỡ khiến cái trừng mắt của họ uy lực khủng khiếp. Nhưng họ cũng rất vui tính, lâu lâu lại đùa với trẻ con, đá đít đứa này, đá đít đứa kia.

Thằng Tí kéo tôi lọt thỏm vào trong gian hàng của họ. Nó lanh lẹ hơn tôi nên thỉnh thoảng được những người trong đoàn nhờ vịn cái này, vịn cái kia cho họ giăng dây hoặc lèn những vật nặng.
Sung sướng lắm, mặt vênh lên, nó bảo tôi:
- Mày có muốn vịn không, tao cho mày vịn đấy!
Tôi làm như bất cần.
Loáng một cái họ đã sắp đặt mọi thứ trông rất oách. Ðầu bên này là ba cây giáo dài chụm lại, cột nơ đỏ. Ðầu bên kia là cái bàn chông kèm theo mấy trái dừa khô. Họ mở những cái bồ lát, quả thật, bên trong đầy rắn độc. Những con rắn ngóc cổ cao.
Họ bảo thằng Tí:
- Mày có thích đánh trống không? Cho mày đánh đó.
Thế là tôi và thằng Tí nhảy tót vào, mỗi thằng một cái dùi, đánh, đấm, chặt, ỏm tỏi.
Cả khu chợ náo động hẳn. Người lớn trẻ con bu đông nghẹt. Nhưng họ luôn luôn không vội vàng gì, cứ từ từ nhẩn nha. Ðến một lúc nào đó, người trưởng đoàn vỗ tay, thế là đồng loạt những người thanh niên cởi phăng áo, cột ngang bụng một dải lụa nhỏ. Người nào bán thuốc sẽ cột thêm một cái khăn vàng lên cổ. Có người còn quấn lên người thêm một con trăn to đùng.

Ðầu tiên họ sẽ biểu diễn một trò phù phép. Chẳng hạn như bỏ một đồng tiền cắc vào lỗ tai này, sau đó lấy nó ra ở lỗ tai kia. Thật tài tình. Họ còn nhờ trẻ con lên xem có đúng là lỗ tai họ hoàn toàn bình thường không. Sau đó vui vẻ biểu diễn tiếp. Họ có những viên thuốc gia truyền từ nhiều đời đựng trong những chiếc hộp tròn nhỏ. Ðây là loại thuốc thần kỳ, da vừa bị rạch, chảy máu đầm đìa, bôi vào sẽ lành ngay. Họ biểu diễn ngay trước mọi người khiến ai nấy cũng phải tái mặt vì sợ.

Cầm con dao cạo râu bén ngót, họ từ từ rạch một đường nhỏ ở bụng. Tay bịt vết thương, mặc cho máu chảy ra, họ cứ thản nhiên quảng cáo thuốc, có khi còn nhờ ai đó pha giùm ly nước chanh để nhấp giọng.
- Phương thuốc này, chúng tôi chỉ bán một số lượng có hạn thôi vì cần phải đem đến những chỗ khác chia đều cho mỗi người một ít.
Ngày nào cũng vậy, cái bụng của họ bị rạch ra, sau đó lại lành. Những lúc mãn chợ, họ quây quần trong lều. Ðàn ông nằm vắt vẻo đàn hát nghêu ngao. Ðàn bà thì lo cơm nước, giặt giũ, tắm rửa cho trẻ con.

Thấy chúng tôi, họ vui lắm, ngoắc vào cho ngồi gần. Lâu lâu lại quay lưng cù đứa này, cù đứa kia. Cũng có lúc họ làm chúng tôi vã mồ hôi khi hăm he sẽ làm biến mất "con chim" của một đứa nào đó. Cả bọn ù té chạy về, vừa chạy vừa thò tay xuống quần bụm chặt. Về đến nhà mới hay là còn. Khiếp!
Nhưng dù thế nào, có sợ đến vỡ mật đi chăng nữa, ma lực của họ vẫn khiến chúng tôi ngày nào cũng phải mò xuống chợ xem họ biểu diễn. Không những thế, còn chờ xem họ ăn uống, họ đi ngủ, họ hát, cười, họ đi tắm... như thế nào.

Trong đám chúng tôi, chỉ có thằng Tí là được họ cưng chìu nhất, cho nó ngủ lại trong lều. Tất nhiên nó chẳng khi nào dám ngủ, chỉ nằm vu vơ cho "đã cựa" rồi về. Nhưng như thế đủ là tiên là phật rồi, mấy ai được. Tôi là bạn thằng Tí nên cũng được hưởng lây.
Có một lần, tôi lò dò đi vào trong lều tìm nó thì bất ngờ có một ai đó la lên:
- Thằng kia, mày đi đâu đó?
May sao thằng Tí ở đâu không biết, chạy ra nói:
- Bạn của em đó.
- Bạn của mày à. Thật không? - Người kia hỏi lại lần nữa, đầy nghi ngờ.
- Dạ, bạn của em. - Thằng Tí xác nhận.
- Vậy thì vào đi!
Thật hú vía. Tôi đi vào, trong lòng thầm biết ơn nó vô hạn.

Mùa mưa cứ âm ỉ, dai dẳng. Tưởng hết, hóa ra lại còn nên đoàn sơn đông mãi võ ít có dịp bán thuốc. Có nhiều lúc đám đông vừa mới tụ lại được một chút thì trời đổ mưa. Ai nấy vội vàng về nhà. Ðời sống của họ trở nên tiêu điều hơn bao giờ hết. Họ ôm đàn nỉ non hát, có vẻ buồn bã lắm.
Chúng tôi cũng mất đi cơ hội xem biểu diễn.
Thằng Tí bảo tôi:
- Tao nghe nói họ có con rắn hai đầu.
- Làm gì có!
- Mày không biết đấy thôi. Ngày nào họ chẳng nói. Họ cất nó trong cái bồ đen.
- Thế họ cất làm gì kia chứ, sao không đem ra cho mọi người xem.
- Ai mà biết được, chắc họ để dành cho buổi biển diễn cuối cùng, trước khi đi.

Mẹ vẫn hay kể chuyện cổ tích cho tôi nghe về con rắn hai đầu. Một đầu thức, một đầu ngủ. Chúng ở trong những hang đá u tối, trên những ngọn núi cao. Ngày xưa chúng là con vật chuyên đi gieo rắc điều ác.
- Tao không tin họ có con rắn ấy đâu. - Tôi nói.
- Mày không tin thì kệ mày, nhất định tao sẽ rình lúc họ sơ ý...
- Mày mở cái bồ đen à?
- Chớ làm sao nữa.
- Thế mày nhớ cho tao theo với, biết đâu có lúc mày cần tao.
- Tao chẳng cần. Có mày đi, lỡ mày sợ quá mày la lên thì sao!
- Tao sẽ không la.
- Ðừng có xạo. Mỗi lần sợ cái gì, tao thấy mày la rất to.

Tôi uất ức đá văng bụi cỏ dưới chân tôi chạy ù về nhà. Dầu không tin thằng Tí dám làm, nhưng tôi vẫn cứ sợ sợ, biết đâu nó liều thì sao, xem như tôi đã mất một cơ hội chứng kiến một điều kỳ diệu.

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
17. Bi kịch


Đêm hôm đó, tôi không tài nào ngủ được. Ngoài trời mưa rả rích trên khu vườn tối om. Ðợi mọi người trong nhà ngủ hết, tôi liền nhẹ đến bên cửa sổ mở toang nó ra. Hơi lạnh thốc vào, vỗ lên mặt tôi như một bàn tay vô hình bằng nước đá. Từng ngón nhòe ướt, không chỉ năm mà hàng vạn ngón chà khắp người tôi. Một cú rùng mình ớn lạnh khiến tôi chạy ù vào gường. Tôi ngủ thiếp đi, ú ớ trong miệng. Ánh sáng từ con rắn trùm kín người tôi. Một giấc mơ đầy ánh sáng.

Tôi dậy lúc 6 giờ. Cổ rát bỏng, cứ như nuốt phải than. Mẹ nói tôi đã la hét suốt đêm.

Một lần nữa, con rắn hai đầu lại ngọ nguậy trong trí tưởng tượng của tôi. Cổ ngóc cao, từng lớp vảy trên người lóe sáng kéo tôi nhảy phắt ra khỏi giường.

Tôi chạy sang nhà thằng Tí. Thằng này đáng nghi lắm. Nhìn trước nhìn sau vắng hoe, chẳng thấy nó đâu. Người lớn đã ra đồng. Chột dạ, tôi chạy ra chợ.

Những người sơn đông mãi võ đang bày biện trên khu đất trống ướt nhũng nước. Vừa dọn dẹp, họ vừa hát ư ử mệt mỏi. Có lẽ, họ dọn đi trong nay mai như lời tụi nó nói.

Buồn quá, chẳng thấy nó đâu, tôi quay về nhà. Bố mẹ tôi cũng đã ra đồng hết cả rồi. Trên bàn là bát cơm mẹ để dành cho tôi. Mẹ luôn làm vậy mỗi buổi sáng.

Tôi bưng tô cơm rồi chui vào cái góc kẹt quen thuộc ăn. Tuy là buổi sáng nhưng cái góc kẹt đó lúc nào cũng tối. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy những con thằn lằn trên tường, rụng đuôi hoặc vừa bò vừa kêu tắc tắc... Chúng là những con thằn lằn tôi đã bắt từ nhà thằng Tí đem về thả, và thỉnh thoảng dán cho vài hột cơm lên tường. Mẹ vẫn hay đùa là tôi chăn nuôi trên vách một đàn ủn ỉn. Những lúc không biết làm gì tôi hay vào góc kẹt ngồi ngắm chúng. Chán chê, tôi đuổi chúng đi.
Và nốt những hạt cơm còn lại, tôi chạy sang ông Tư. Ðã lâu tôi chưa đến thăm ông, một phần cũng vì thằng cháu lão ăn xin, nó đã làm tôi buồn nhiều hơn, hết muốn chơi đùa.

Ông Tư dạo này có vẻ hơi ốm. Nằm trên giường, ông hát Lục Vân Tiên, buồn khổ, giọng khàn.
Tôi chạy xà vào lòng ông:
- Ông Tư nhớ con không?
- Con đấy à? Ông ngóc cái đầu lên, lại nằm xuống. Chà, chà! Lâu rồi không thấy cái bàn tay mình!
Tôi trèo lên giường nằm ôm ông như ôm một cái gối.
- Ông biết không, những người sơn đông mãi võ có con rắn hai đầu. Một đầu xanh, một đầu đỏ. Khi cái đầu này ngủ thì cái đầu kia thức.
- Tuyệt nhỉ.
- Nhưng họ không bao giờ cho chúng con xem. Thằng Tí định lén mở cái nắp bồ ra để xem họ có nói thật không.
- Ấy chết - Ông Tư giãy nảy - con phải ngăn nó ngay. Như thế rất nguy hiểm.
- Nó chẳng bao giờ nghe con cả. Nó sẽ lén làm một mình.
- Con phải báo với chú Hùng chứ!

Tôi ậm ờ rồi chạy về nhà. Có lẽ còn lâu thằng Tí mới dám làm. Nó chỉ hù tôi thôi.
Buổi trưa đến nhanh hơn tôi tưởng. Mặt trời oi bức, ngột ngạt. Tôi lững thững ra vườn. Vẫn không ngớt nghĩ về con rắn. Tôi quơ đám lá rụng rồi trải ra đất làm một cái ổ. Khoan khoái, tôi chuồi mình vào đó. Ðất mát rượi. Tôi miên man nhìn lên bầu trời qua những lỗ thủng trên tàn cây.

Giờ này chẳng biết thằng Tí đi đâu nhỉ?
Tôi mơ màng rồi ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết. Tôi tưởng tượng mình là cái ông gì đó trong câu chuyện cổ của mẹ, lên động tiên chỉ nhờ giấc mơ. Hóa ra cái động tiên chỉ nằm đâu đó rất gần, cũng có thể nó đang nằm trong khu vườn này, chẳng qua là nó không chịu hiện ra mà thôi.
Tôi ngủ được một giấc dài, chẳng biết bao lâu, bỗng có một bàn tay lay tôi dậy, đó là thằng Tí. Mặt nó tái xanh không còn giọt máu.
- Tao bị rắn cắn rồi. - Nó nói.
- Thật không?
- Thật mà.
- Làm sao mày vào được?
- Tao lén lúc họ ngủ trưa.
- Thế họ có biết mày bị rắn cắn không?
- Biết, nhưng tao bỏ chạy.
Nó chìa tay ra, trên đó có hai lỗ thủng nông nông hồng hồng.
- Họ đã nói dối, chẳng có con rắn hai đầu nào. Chỉ có hai con rắn lốm đốm mà thôi. Tao vừa mở nắp ra, nó nhảy phóc lên.
- Mày sẽ chết đó!
- Còn lâu. Con rắn đó không thể làm tao chết được. Mặt nó hiền khô à. Có lẽ tao làm nó giật mình.
- Mày có thấy đau không?
- Không! Lúc tao chạy gần đến đây mới thấy hơi tê tê, nhìn xuống mới biết nó vừa cắn mình. Mà hỏng chừng tao bị cái giỏ cào cũng nên.
- Làm sao mày biết tao nằm ở đây?
- Tao đâu có biết. Tao định chui vào bụi lài trốn. Tao sợ họ tìm bắt tao.
- Mày thấy người thế nào?
- Chẳng thấy gì cả. Chỉ hơi buồn ngủ. Ðêm hôm qua tao đã thức rất khuya. Ðáng lý tao cũng chưa mở giỏ đâu, nhưng sáng nay họ thông báo sẽ bán bữa cuối cùng nên tao liều.
Nói rồi nó ngáp dài, mặt rũ xuống:
- Thôi tao đi ngủ đây. Mày đừng cho ai biết nhé.
Vừa nói nó vừa chui vào bụi lài.
- Ừ. Tao sẽ chẳng cho ai biết đâu. Nhưng mà mày có sao không? Coi chừng mày chết đó.
- Chết gì mà chết. Không sao đâu. Tao chỉ ngủ một giấc là tỉnh ngay.
Tôi bước đi mà cứ thấy nhờn nhợn:
- Tí... Tao sợ người chết lắm đó. Mày mà chết trong bụi lài thì đến già tao cũng không dám ngửi hoa nữa!
Im lặng.
- Tí... mày có nghe tao nói gì không?
Tôi nhảy tót vào nhà. Có lẽ nó đã ngủ. Nó chẳng nói đêm qua nó thức khuya là gì.
Bên tấm phản, bố tôi đang ngồi đan những cái sọt. Vừa thấy tôi, bố đã lên tiếng:
- Có chuyện gì vậy con?
- Không có gì cả bố ạ.
- Con lại giấu bố rồi. - Bố cười ha hả. - Nhìn cái gương mặt con là bố biết đã có chuyện.
Tôi lẳng lặng ra lu nước rửa chân. Có thật là thằng Tí không chết không? Tôi cũng chẳng tin, hai cái lỗ nhỏ xíu đó thì nhằm nhò gì với nó. Nó đã từng bị hàng rào đâm toạc cả mảng thịt lớn. Nhưng sao tôi vẫn cứ lo lo.
Tôi vòng sau nhà ra lại bụi lài, khẽ vạch lá ra nhìn, thấy nó vẫn nằm thở bình thường. Thế là yên tâm quay vào.
Bố lại hỏi tôi lần nữa:
- Nói thật với bố đi, có chuyện gì vậy?
- Con không thể nói được bố ạ. Con đã hứa rồi.
- Con hứa với ai?
- Với thằng Tí.
- Thế tại sao nó không cho con nói?
- Con đã lỡ hứa là con sẽ không nói.
- Nó đã làm một việc gì sai à?
- Không, bố ạ. Nhưng mà con sẽ không nói đâu.
- Việc gì mà hệ trọng thế? Chẳng lẽ kể cho bố nghe mà con phải ân hận à?
- Không phải. Nhưng con sợ nó không tin tưởng con nữa. Nó ghét mấy đứa nhiều chuyện lắm!
- Thế có ai ngoài con biết chuyện này không?
- Có. Họ có biết. Nhưng họ không đuổi kịp nó. Họ chỉ chuyên nói dối thôi.
- Thế họ không biết nhà nó à?
- Không. Họ là người lạ mà.
- Con lại nói dối bố rồi! Ở đây làm gì có người lạ.
- Không. Con nói thật. Họ là những người sơn đông mãi võ.
- À ra thế. Bố cười ồ. Họ bắt nó, đúng không?
- Dạ.
- Nhưng họ nói dối cái gì mới được cơ chứ?
- Họ nói có con rắn hai đầu, nhưng chẳng hề có, chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi.
- Thế thì mắc gì họ đuổi theo nó?
- Nó đã lén giở giỏ rắn ra.
- Ấy chết - bố tôi chồm lên - rồi sao nữa?
Tôi òa lên khóc:
- Họ đã nói dối. Chẳng hề có con rắn hai đầu. Chỉ có hai con rắn lốm đốm thôi. Nó đã bị con rắn ấy cắn.
- Nó đâu rồi? Bố tôi gần như không còn bình tĩnh nữa. Nó đâu? - Ông quát vào tai tôi.
- Dạ, nó nằm ngủ ngoài bụi lài.
Bên dưới bụi lài, thằng Tí phồng lên một cách kỳ dị. Khuôn mặt tím ngắt. Từ miệng, bọt mép sùi ra.
- Con chạy sang gọi bố mẹ nó nhanh lên!
Rồi bố tôi ẵm nó sang ông lang vườn. Khi nhấc nó lên, tôi thấy cánh tay nó rũ xuống đong đưa như một con chim bị trúng đạn.
Khi băng qua cánh đồng, hình ảnh của thằng Tí vẫn không buông tha tôi. Có phải nó đã chết?
Bố tôi vẫn nói, khi một người thương yêu của ta ra đi, cũng giống như chúng ta cắt lìa từng khoảng trời trong trái tim mình. Ðó là một khoảng trời rất rộng mà ta hít thở từng ngày.
Ta được nuôi sống.

Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 7

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
13. Bà Ma-xơ đàn


Cách nhà tôi khoảng ba cây số có một nhà thờ nhỏ. Tụi thằng Toàn hay rủ tôi đến đó xem các bà ma-xơ: đầu trùm khăn trắng đi qua đi lại, không thấy chân. Ðã nhiều lần chúng tôi nói với nhau, cái chân của bà ma-xơ phải nhỏ lắm nên bà mới giấu trong chiếc áo thụng lùm xùm. Nói là nhà thờ nhưng chỉ gấp đôi căn nhà tôi, cửa nẻo trống hoác không còn cánh cửa.

Bố tôi nói ngày xưa nhà thờ đẹp lắm, vôi trắng toát, hàng rào gỗ chạy dọc nhưng chiến tranh đã không chừa thứ gì. Rồi thời gian không được tu bổ, nó cũ kỹ và tàn úa.

Vùng tôi ở chỉ có một vài nhà theo đạo, người ta gọi họ là những con chiên. Vì con chiên ít quá nên cũng không giúp được gì nhiều, ngoài những lúc rảnh rỗi khỏi việc cày cấy, họ tụ tập sau nhà thờ phụ các bà ma-xơ cuốc đất. Các bà ma-xơ cũng như những người nông dân ở đây, họ trồng hoa, trồng rau, trồng lúa, chỉ có khác là họ làm việc trong khu đất của nhà thờ. Người dân ở đây gọi là "đất của ma-xơ". Ðất màu mỡ lắm, trồng cái gì cũng tốt. Hoa mọc từng luống đỏ chói.

Ngoài việc trồng trọt, các bà ma-xơ luôn ở trong nhà. Có cả thảy là bốn ma-xơ. Họ không nói chuyện với nhau, chưa bao giờ tôi thấy họ nói chuyện. Họ cứ im lặng đi ra đi vào.
Từ vùng ngoài khu đất ma-xơ, chúng tôi theo dõi họ. Họ có nhiều cái để nhìn. Ví dụ chiếc áo. Thông thường người ta làm ruộng với những chiếc áo xấu xí, thì các bà ma-xơ ngược lại, lúc nào cũng bận những chiếc áo trắng tinh, sạch sẽ. Họ giống những người dạo chơi trong vườn hơn là làm vườn.

Có nhiều lần tôi đi xuống nhà thờ một mình. Tôi thích vậy vì cảm giác vừa sợ vừa khoái trá khi chui vào một hốc kẹt rồi lắng nghe tiếng bước chân của các bà đi đi lại, mà không hề biết sự có mặt của tôi. Tôi ngồi cho đến khi mặt trời gần lặn, thế là sung sướng đi về.
Tôi phải công nhận với lũ bạn, các bà ma-xơ là những người khó hiểu nhất. Chúng tôi hay mò vào nhà thờ lúc các bà đang trồng trọt. Qua cánh cửa chính là một gian phòng rộng mênh mông. Ngoài cái bàn thờ lớn để trên bục ra, nhà thờ chỉ có vài hàng ghế và một cái hộp gỗ vuông. Tôi chưa bao giờ thấy một căn phòng rộng và trống trải như vậy. Sau gian phòng là những cái phòng nhỏ, nơi các bà ma-xơ ngủ. Gia tài của các bà là những cuốn sách dày và những bộ quần áo dài màu trắng. Bố tôi nói cái hộp gỗ vuông mà tôi thấy là cây đàn piano.

Những buổi chiều hoặc tối, các bà hay chơi đàn. Tiếng đàn vọng ra bên ngoài hàng rào nghe thật xa lạ và buồn thiu. Cả nhà thờ như chìm vào trong bóng tối, ngoại trừ tiếng đàn là lung lay, là động đậy. Cây đèn dầu đặt trên bàn thờ nhỏ xíu và đó cũng là nguồn sáng chính cho căn nhà.

Nhưng buổi chiều thứ bảy, các bà chơi đàn sớm hơn thường lệ, nên thằng Toàn hay rủ tôi đi xem. Qua cái lỗ tò vò, tôi thấy một bà ngồi đàn và ba bà ma-xơ còn lại đứng hát như trên sân khấu. Khi hát, thỉnh thoảng họ đưa hai bàn tay về phía trước rồi lại úp vào ngực. Cử chỉ đó luôn luôn không đổi trong mọi bài hát. Khuôn mặt các bà ngẩng lên cao, trang nghiêm, say đắm. Sau mỗi bài hát, họ cũng không nói chuyện với nhau. Người chơi đàn dạo qua bản khác như có sự thỏa thuận từ trước. Cuốn nhạc dày cộm đặt trên cây đàn, màu vàng úa được các bà lật nhẹ, thận trọng như sợ rách. Cử chỉ đó đã cho các bà một dáng vẻ khác người.

Chúng tôi thường bỏ về giữa chừng vì không còn cái gì để xem. Khi đến, các bà đã chơi đàn rồi và khi về các bà vẫn đang còn chơi đàn. Dầu vậy phải công nhận, các bà ma-xơ có cái gì đó đã lôi cuốn tôi kinh khủng. Cứ cách một vài hôm là tôi lại mò xuống nhà thờ. Ði quẩn quanh trong ngôi nhà trống hoác, rồi chui vào hốc kẹt khi thấy những cái bóng trắng thấp thoáng; hoặc nhìn các bà ma-xơ chơi đàn qua cái lỗ tò vò. Có hôm, tiếng nhạc du dương làm tôi ngủ lúc nào không hay, khi đang ngồi trong hốc kẹt. Khi thức dậy thì trời đã tối, các bà ma-xơ cũng không thấy đâu, tôi thấy nhà thờ như một lâu đài bỏ hoang trong những câu chuyện cổ tích. Dầu mọi ngóc ngách bên trong tôi đều biết, nhưng vẫn có một cái gì đó bí ẩn mà tôi cần phải khám phá thêm.

Mùa mưa năm đó kéo dài lê thê. Mẹ tôi nói chưa bao giờ thấy một mùa mưa dài như vậy. Cây ngoài vườn xanh mướt vì liên tục được tắm gội. Trong những trận mưa như vậy, tôi hay rủ thằng Toàn xuống nhà thờ. Chúng tôi chui vào góc kẹt quen thuộc, rồi lắng nghe tiếng mưa lẫn tiếng đàn. Tôi phát hiện ra một điều: những hôm mưa các bà luôn chơi đàn và luôn chơi hay hơn. Tôi đã tìm được một chỗ ngồi gần các bà nhất mà vẫn không bị phát hiện. Chỗ ngồi đó chỉ cách các bà một vách mỏng. Các bà ma-xơ đang vừa đàn vừa hát say mê.

Bỗng một bà đi đến chỗ chúng tôi ngồi, nói vọng qua lỗ tò vò:
- Ai đó, vào đi.
Vụt một cái, thằng Toàn nhảy phắt qua bờ rào chạy thoát. Tôi chạy theo nhưng vấp phải một vật gì đó, té nhào, nằm bẹp. Khi tôi ngóc đầu lên đã thấy đôi chân của bà ma-xơ đứng trước mặt. Ðó là một đôi chân nhỏ xíu, trắng hồng. Một đôi chân hoàn toàn chạm đất.
- Con có sao không? Ðừng sợ. Bà không bắt con nít bao giờ.
Tôi khóc òa. Bà dẫn tôi vào nhà, đặt ngồi trên chiếc ghế gần cây piano.
Một bà hỏi:
- Con có thích nghe hát không?
Tôi gật đầu:
- Nhưng bà đừng đến gần con, con sợ lắm đó!
- Rồi rồi, không sao cả! Các bà cười hiền hậu. Con có thể đến đây chơi bất cứ lúc nào con muốn.

Tôi khoe với thằng Toàn là đã quen với bà ma-xơ. Nó không tin. Nó còn thông báo với cả lớp rằng tôi đã nói xạo như thế nào. Thế là tôi phải dẫn bọn chúng xuống nhà thờ. Chúng tụ tập bên ngoài hàng rào còn một mình tôi đi vào bên trong. Tôi nắm tay ma-xơ Hiền, dắt ra phía trước rồi chỉ vào bọn chúng. Thế là bọn chúng ù té chạy quắn đít.
Từ đó chúng thần tượng tôi lắm. Chúng nhờ tôi cho chúng làm quen với các bà ma-xơ. Nhưng ngu gì, tôi nói là ma-xơ rất ghét con nít. Ðứa nào héo lánh sẽ bị bà lấy cù nèo móc giò.

Kể từ đó, vào ra nhà thờ chỉ độc quyền cho một mình tôi. Những buổi chiều rảnh rỗi, tôi đến thăm các bà ma-xơ, ngồi nghe họ hát. Những bài hát lạ lùng ca tụng về một nguồn sáng nào đó.
- Con có biết hát không? Ma-xơ hỏi.
- Có. Nhưng không giống những bài của ma-xơ.
- Chẳng sao cả!
Tôi hát bài "Người mẹ vĩnh cửu" mà bố tôi dạy:


Mẹ có đôi tay rộng lớn ôm cả thế
gian con nít.
Mẹ có đôi mắt màu xanh lơ lúc da
trời vừa đổ mưa xong.
Mẹ là hoàng hôn của một ngày luôn
luôn là buổi chiều.
Mẹ, mẹ tôi, người mẹ vĩnh cửu...

Có một lần tôi gặp thằng cháu ông lão ăn xin trong nhà thờ. Mặt nó vẫn vậy, vênh lên, nhưng đôi mắt không còn căm phẫn như tôi gặp lần trước. Vừa thấy tôi, nó bỏ đi. Tôi biết trong túi nó có hai hộp diêm.

Từ dạo phát hiện nó ngủ trong vườn, bố tôi bảo kệ nó, làm lơ cho nó. Thỉnh thoảng bố còn để một vài trái ổi dưới bụi lài. Bố chơi trò người lạ mặt. Có hôm tôi còn thấy bố ra vườn nhìn nó ngủ. Bố nói, nó là món quà của bố. Khi trồng một khu vườn mà không có ai đến thăm, không có ai yêu nó thì đó là một nỗi buồn hơn là niềm vui. Những buổi trưa, bố cấm ngặt tôi ra vườn. Bố để dành khu vườn cho nó. Tự dưng tôi thấy ghen tức. Tôi kể mọi chuyện cho thằng Tí nghe. Thế là chúng tôi làm một cái bẫy: cột những hộp lon với nhau rồi dẫn một đầu dây vào nhà. Khi nó xuất hiện dưới bụi lài, chúng tôi giật dây loạn xạ. Tiếng động vang lên khắp vườn và nó bỏ chạy trối chết... Hôm sau tôi thấy mặt mũi tay chân nó đầy vết xước, có lẽ bị gai cào khi chạy trốn. Chúng tôi ân hận vô cùng. Tôi hứa không tái diễn trò đó nữa. Nhưng cũng từ đó không thấy nó ghé lại nhà tôi. Bố tôi hỏi và tôi giấu biến. Tôi không có can đảm nhận lỗi về mình. Khi nhận lỗi, tôi thấy mình hổ thẹn nhiều lắm. Có nhiều lần tôi muốn bắt chuyện với nó, nhưng khi gặp khuôn mặt vênh vênh, tôi lại thôi.

Một lần khác tôi gặp nó lảng vảng trong nhà thờ hôm bà ma-xơ Hiền bị bịnh. Bà nằm thiêm thiếp trên chiếc gường gỗ. Người nhỏ thó như bị rút lại. Những ma-xơ khác đắp khăn ướt cho bà. Có người ngồi đầu giường đọc kinh.

Tôi đi ra dãy nhà ngoài thì gặp thằng cháu lão ăn xin đang lảng vảng bên chiếc piano. Nó chạm tay vào những cái phím rồi vụt bỏ chạy khi thấy tôi. Tôi đến ngồi trước chiếc đàn rồi cũng như nó, chạm nhẹ từng phím một. Những âm thanh vang lên khiến tôi nhớ mới hôm qua bà ma-xơ Hiền vẫn còn ngồi đây điều khiển chiếc đàn. Bây giờ không có bà, những bài hát như nằm sâu bên trong, không người đánh thức. Chúng sẽ ngủ mê mệt và quên cả thức dậy để ca ngợi sự du dương trầm bổng. Những bài hát trong cuốn sổ ố vàng đặt bên trên, khép lại, giơ cái bìa dán đầy băng keo. Như một đứa trẻ, người ta băng bó những vết thương cho nó.

Hai hôm sau tôi ghé lại, ma-xơ Hiền vẫn chưa hết bệnh. Tôi đến bên gường, nắm bàn tay nhăn nheo của bà:
- Ma-xơ Hiền ơi! Bà có nhớ cây đàn không?
Kê cái đầu cao trên chiếc gối, bà nhìn tôi, đôi mắt chớp chớp, mờ đục:
- Nhớ chứ con! Âm nhạc là một phần đời của bà.
Tôi nói:
- Con cũng nhớ lắm! Không có bà, cây đàn thật vô tích sự. Chúng chẳng biết hát, chẳng biết reo lên như khi bà chạm vào.

Tôi đi về nhà. Ðêm ngủ tôi mơ thấy chiếc piano gõ từng nhịp một. Những bài hát từ trong đó tuôn ra như dòng suối. Một giấc mơ toàn âm thanh. Khi tỉnh dậy vào lúc nửa khuya, tôi vẫn như còn nghe thấy tiếng đàn. Tôi đi nhẹ ra vườn, trèo lên cây vú sữa, nhìn về hướng nhà thờ. Tôi biết nơi đó những bài hát đang còn trong giấc ngủ, đang nằm trong những chiếc phím ngà chờ người đánh thức. Chờ ma-xơ Hiền.

Những ngày sau, căn bệnh của ma-xơ Hiền càng lúc càng nặng thêm. Chiếc áo như rộng hơn, thò ra những ngón tay khẳng khiu gầy rộc. Bà bảo tôi hát cho bà nghe bài "Người mẹ vĩnh cửu". Hát rất nhiều lần. Hát đi rồi hát lại. Lần nào nghe bà cũng khóc. Bà nói, bài hát nhắc bà nhớ tuổi thơ của mình. Bà lại nói, trong mỗi người già đều có một đứa trẻ được nuôi lớn lên.

Ba hôm sau, ma-xơ Hiền mất. Trước đó một ngày, ước nguyện chơi đàn lần cuối của bà đã được thực hiện. Hôm ấy, mọi người kéo đến đông lắm, đa phần là những người không có đạo, có cả bố tôi.

Bố nói:
- Chúng ta đến không phải để nghe nhạc. Chúng ta đến để đưa tiễn một con người.
Dãy ghế dài đã được ngồi kín. Người ta đặt ma-xơ Hiền lên ghế như cái cách đối xử với một đứa bé vừa yếu ớt vừa mệt mỏi. Rồi im lặng. Rồi thở dài. Người ta chờ đợi âm thanh cuối cùng từ ngón tay bà. Những ngón tay một lần cho tất thảy.

Sau này tôi được biết, những ngày cuối cùng của cuộc đời, ma-xơ Hiền bị mù. Bà đàn khúc nhạc "Người mẹ vĩnh cửu" trong bóng tối mờ mịt.


Mẹ có đôi tay rộng lớn ôm cả thế gian con nít.
Mẹ có đôi mắt màu xanh lơ lúc da trời vừa đổ mưa xong...

Những buổi tối leo lên cây vú sữa, tôi hay nhìn về phía nhà thờ. Tôi biết nơi đó có một cây đàn im lìm dưới bụi bặm, có những bài hát lặng lẽ trong giấc ngủ mê...

Bố tôi nói, âm nhạc chính là bà mẹ vĩnh cửu.



Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
14. Một lỗi lầm


Ngôi mộ ma-xơ Hiền nằm sau nhà thờ, đơn sơ nhưng lạ hơn những ngôi mộ khác, có một cái cây hình chữ thập cắm bên trên. Phía trước mộ có một ô vuông trải cỏ. Nhưng buổi chiều tôi hay ghé thăm chiếc đàn piano không có người chơi, rồi vòng ra sau thăm mộ ma-xơ Hiền. Tôi cũng có tặng ma-xơ một con dế thả vào ô cỏ vuông. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nó gáy dù nằm cạnh, áp tai xuống rất nhiều lần. Có lẽ nó đã bỏ đi. Những con dế không bao giờ hiểu được thế nào là tình cảm. Chúng vĩnh viễn mang hai chiếc càng chỉ để cắn nhau thay vì hôn nhau.

Từ dạo ma-xơ Hiền mất, nhà thờ trông buồn hẳn. Ba bà ma-xơ còn lại tối ngày lủi thủi trong phòng. Những buổi chiều, ba bà đứng hát cạnh chiếc đàn piano, hát trơ, không có người đệm. Chiếc ghế tựa đặt trước chiếc đàn vẫn còn nằm đó nhưng không có người ngồi, chừa ra một khoảng rộng. Có hôm tôi thấy ai đó đặt lên ghế bó hoa.
Bà ma-xơ Hạnh nói:
- Chúng ta hát bài "Vinh hiển thuộc về Người" nhé!
Xong bài đó, lại nói:
- Chúng ta hát bài "Nguồn sáng đời đời" nhé!
Họ lặng lẽ hát rồi lặng lẽ nói. Những bài hát không trôi chảy như trước, cứ phải ngắt giữa chừng bằng những câu nói như vậy.

Tôi đứng giữa căn phòng trống nhìn các ma-xơ qua chiếc đàn piano màu đen. Khuôn mặt ma-xơ Hạnh không buồn không vui, nhưng giọng nói yếu hẳn. Có hôm tôi thấy ba bà ma-xơ đứng hát trước mộ ma-xơ Hiền. Họ hát bài "Vinh hiển thuộc về Người". Bài hát tôi đã được nghe đi nghe lại nhiều lần nên thuộc, có một số đoạn như vầy:


Người đã ra đi trên những lối cỏ
tươi để lại dấu chân.
Chúng tôi yêu những dấu chân vì
nó đã thuộc về Người.
Và vinh hiển thuộc về Người trong
từng ngọn cỏ.
Trong mỗi buổi sáng, tôi biết Người
đã đi qua trên những vết sương...

Tôi đi vào nhà thờ và nhìn cây đàn, tưởng tượng ma-xơ Hiền đang ngồi ở đó rồi rùng mình bỏ chạy. Tụi thằng Toàn nói, ma-xơ Hiền đã thành ma rồi. Người chết đều thành ma cả. Họ sẽ luôn hiện về bên những gì mà lúc sống họ yêu mến. Và từ đó tôi luôn có cảm giác ma-xơ Hiền đi theo tôi.

Buổi tối tôi trùm kín chăn và từ từ thò một bàn tay ra ngoài, huơ huơ xung quanh rồi rụt tay lại. Một hôm tôi đang làm như vậy thì chạm phải một bàn tay, thế là hét ầm cả lên. Thì ra là mẹ tôi. Mẹ có đôi bàn tay thật giống ma-xơ Hiền, những ngón tay tròn nhỏ, mát dịu. Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng có hai con người trong bàn tay đó, cả hai con người đều dịu dàng.

Có hôm tôi cảm thấy như cây đàn piano đang dạo bài "Người mẹ vĩnh cửu". Tôi hỏi có phải ma-xơ Hiền không? Không có tiếng trả lời. Tôi vụt chạy ra phía trước cổng thì bắt gặp thằng cháu lão ăn xin đang đi vào. Mặt nó vênh lên, tóc dựng ngược. Nó không nhìn thấy tôi.

Thế là tôi đi theo nó vòng ra ngôi mộ của ma-xơ Hiền. Thằng này đang làm trò gì mà lén lút vậy. Nó nhìn trước nhìn sau không thấy ai, vội lấy hộp dế ra. Nó đào một cái lỗ trên ô cỏ vuông trước mộ ma-xơ Hiền rồi chôn cái hộp diêm vào đó. Sau đó lấp đất lại, trồng hai cây cỏ lên.

Tôi vòng ra trước mặt nó, bất ngờ hét to:
- Tao bắt gặp mày rồi. Mày đang làm cái gì?
Thằng kia té bật ngửa vì hoảng sợ. Khi nhìn thấy tôi, nó lấy lại bình tĩnh rồi mặt vênh lên như cũ:
- Kệ tao. Tao làm gì mắc mớ gì mày?
Nó lấy tay che chỗ đất vừa đào. Nhưng làm sao giấu được con mắt "thần" của tôi. Tôi nói:
- Mày làm như tao không biết á. Con dế bên dưới chứ gì. Tao chỉ cần ngửi mùi là đủ biết. Hay vậy đó!
Nó gân cổ cãi lại:
- Kệ tao! Tao làm gì mắc mớ mày?
- Hôm trước tao thấy mày rình rình đi theo đám ma ma-xơ Hiền, tao đã nghi rồi. Tao cấm mày không được tặng dế chết cho ma-xơ Hiền. Nếu không, tao sẽ méc ma-xơ Hạnh rằng mày đến đây mày phá...
- Tao phá hồi nào? Lúc trước ma-xơ Hiền còn cho tao mấy trái mãng cầu nữa kia...
- Hóa ra là mày đã ăn trái mãng cầu mà tao đem đến cho ma-xơ...
- Ừ đó, làm gì tao.
- Cái đồ tham ăn!
- Tham ăn đó, làm gì tao!
Tức điên cả người, nhưng suy nghĩ mãi tôi vẫn không biết mắng nó cái gì cho hả dạ. Ai đời bao nhiêu đồ ăn ngon tôi đem đến cho ma-xơ Hiền lại chui vào bụng nó, còn gì là thể diện trước mặt tụi thằng Toàn nữa chứ!
- Hứ - Tôi chợt nhớ ra - Cái đồ ít tiền mà cũng bày đặt mua vườn. Tao còn biết ông mày có một cọc tiền nữa kia!
Không hiểu sao, thằng kia đứng ngớ người một hồi, rồi mặt đỏ bừng lên. Cuối cùng như dồn hết hơi, nó mới bật được thành tiếng:
- Ðồ mách lẻo! Ðồ rình mò! Mày tưởng tao sợ mày à? Tao không sợ thằng nào hết!
- Tao cũng không sợ mày - tôi nói - mày chỉ cần đụng ngón chân út của tao thôi, tao sẽ đánh mày ngay.
Nó lườm lườm nhìn tôi, sau cùng nó lục túi lấy ra hộp diêm, thảy lên bãi cỏ:
- Tao trả con dế cho tụi mày đó. Tao không cần nữa. Tụi mày chỉ bắt nạt người khác thôi. Tụi mày ỷ có khu vườn, tụi mày đuổi tao đi. Mai mốt ông cháu tao có khu vườn rồi thì tụi mày sẽ thấy. Nó sẽ lớn hơn ngôi nhà tụi mày. Dế sẽ thả đầy nhung nhúc. Tao sẽ không bao giờ nuôi những con dế chết đâu. Tao chẳng bao giờ cần con dế của tụi mày nữa đâu!
Nói xong, nó đào hộp dế dưới đất lên, phủi sạch, bỏ vào trong túi. Cái mặt vênh vênh hung hãn, rồi bỏ đi. Vừa đi vừa đá dọc đá ngang những bụi cỏ. Sau cùng mất hút dưới cánh cổng nhà thờ.
Còn lại một mình, tôi nhặt hộp dế lên rồi mở ra. Con dế ngơ ngác một hồi rồi nhảy vụt qua kẽ tay tôi. Ðôi cánh đen muốt.

Tôi về nhà. Vừa thấy tôi, bố đã hỏi:
- Con làm sao vậy?
- Con đã lỡ đòi lại món quà mà con đã cho.
- Người đó có lỗi với con lắm à?
- Không, bố à. Chẳng có lỗi gì.
- Thế thì con phải xin lỗi họ thôi.
- Con sẽ không bao giờ xin lỗi nó.
- Nếu vậy, bố sẽ rất xấu hổ vì con. Và con cũng sẽ rất xấu hổ khi gặp lại nó.

Hai hôm sau tôi mò xuống chợ. Tôi cũng không biết có nên xin lỗi thằng đó không. Xin lỗi thì thấy kì quá. Nhưng tôi cũng muốn biết bữa giờ nó như thế nào.

Ði lên đi xuống vẫn không gặp, cả mấy cái sạp cũ họ hay ở cũng không thấy, cuối cùng đành quay về. Tôi nghe con Phượng nói ông cháu lão ăn xin đã đi rồi. Chẳng biết họ đi đâu. Tất nhiên không phải về quê mua vườn. Với xấp tiền đó, ít nhất phải một trăm xấp mới mua được. Vậy thì họ đi đâu? Thằng Toàn nói có lẽ họ đi vùng khác, nhưng chắc chắn không đi được xa vì thấy ông lão yếu lắm, đôi chân run rẩy dữ dội mỗi khi bước đi.
- Chẳng biết thằng đó có đem theo con dế tụi mình cho không?
Tôi im bặt khi nghe thằng Toàn nói. Tôi không dám kể cho nó nghe vì sợ nó xem thường mình. Nhưng tôi vẫn hy vọng, hy vọng tìm thấy họ bởi một sự vô tình nào đó.

Những lều bạt, những ván chợ bỏ hoang khiến tôi bơ vơ một lúc. Dọc theo con đường cái, tôi đi miết. Hình như khi đi theo một con đường thì tôi sẽ không bao giờ dừng lại được nữa, vì con dường cứ kéo dài ra mãi, ra đến muôn trùng.

Ông lão ăn xin sẽ dừng ở đâu? Có lẽ ông lão sẽ đi cho đến hồi không thể đi được. Nơi đó sẽ là nơi ông lão dừng lại. Vậy thì bao giờ ông mới đi ngược trở lại để về quê nhà, để tôi còn có cơ hội gặp lại cháu ông? Có lẽ lúc đó tôi sẽ đủ can đảm để xin lỗi nó. Tôi sẽ dẫn nó về nhà và cho nó một con dế khác. Nó sẽ không còn vênh mặt lên nhìn tôi nữa, mà sẽ nói: "Tao đã quên rồi".
- Có thật không? Tôi hỏi lại.
Nó nói:
- Mày có đáng gì để tao nhớ chứ!
Thế là bọn tôi gây lộn với nhau.
Nhưng tất cả chỉ là tưởng tượng thôi. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ nó không thể quên được chuyện đó.
Trên đường dẫn ông lão đi, hẳn nó sẽ nói:
- Bọn chúng đều xấu cả. Bọn chúng tranh giành những con dế, những khu vườn với con.
Rồi hai ông cháu họ vui vẻ dấn bước. Càng đi, họ càng rời xa tôi mãi, càng bước gần hơn với khu vườn của họ. Tôi vĩnh viễn đứng bên đây, hun hút xa cùng với nỗi ân hận.

Bố tôi vẫn nói, khi nhìn theo bóng một người mà ta không thể quên được, chúng ta sẽ thấy "nỗi nhớ" của mình.


Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
15. Những ngày bình thuờng


Mùa mưa ẩm thấp lại đến. Những cơn mưa đêm lướt qua, vừa lạnh lẽo vừa ồ ạt. Bằng cái màu trắng của mình, chúng đã biến đổi cả một khoảng trời trong giấc ngủ tôi

Tôi hay sang nhà chú Hùng, chui vào cái ụ rơm như một con chim chui vào cái tổ. Tôi cũng hay tưởng tượng mình sẽ mọc cánh, những cái cánh dài vừa vặn với thân thể của tôi. Một buổi chiều đầy gió tôi bay về phía cuối bầu trời. Nơi đó có những đám mây mang gương mặt của bé Thương.

Vào ngày nắng, tôi xếp đôi cánh vào cái sọt nhỏ để dưới gầm gường của mình. Hàng đêm đôi cánh vẫn cứ mọc dài và ngúc ngoắc.

Trong những giấc mơ lơ đãng, tôi cũng có một đôi cánh khác. Ðó là những đôi cánh vải mềm và trong suốt đưa tôi đi. Nhưng tôi cũng biết trong những giấc mơ, tôi có bay cao xa cũng không ra khỏi khu vườn. Tôi đã hiểu thế nào là một khu vườn rồi. Tôi cần đi đến một nơi khác khu vườn tôi đã có. Tại sao không chứ? Mẹ tôi nói, khi một đứa trẻ lớn lên, chúng cần biết nhiều điều bên ngoài khu vườn. Mẹ đã hé cho tôi thấy một khu vườn không bao giờ đủ cho một đứa trẻ.

Tôi đã âm thầm vùi bốn củ khoai vào tro nóng mỗi đêm. Tôi sẽ làm công việc đó liên tục hàng ngày. Một ngày nào đó, chắc chắn nó sẽ đến, khi cảm thấy đủ sức rời khỏi khu vườn, tôi sẽ có bốn củ khoai nóng mà đem theo.

Nhưng mùa mưa cứ dai dẳng và âm ỉ khiến sự chờ đợi của tôi mòn mỏi dần và tôi quên nó. Một ngày nọ bỗng nhớ đến, ôi thôi, củ khoai đã thành tro rồi còn đâu. Tôi cười xòa rồi quên cái ý định ra đi. Thành thật mà nói, với bốn củ khoai đó, tôi chỉ có thể xa mẹ đúng một ngày. Một củ cho điểm tâm, ba củ còn lại dành cho sáng, trưa và chiều. Tôi chưa bao giờ có thể xa mẹ hơn thế nữa. Tôi đành giấu kín chuyện này, xem nó như là một bí mật của đời tôi.

Từ ngày không được làm bố, chú Hùng ít ghé nhà tôi. Mẹ tôi nói, chú muốn lao vào công việc để quên bé Thương. Tờ mờ sáng, chú đã vác cuốc ra đồng cho đến tối mịt mới trở về. Cô Hồng đã đi làm lại. Cô có vẻ hơi ốm, chiếc áo dài màu xanh trông rộng hẳn. Khuôn mặt gầy gầy, âu lo. Tôi hay sang thăm cô vào mỗi buổi chiều, phụ cô làm một cái gì đó. Cô đã đan xong chiếc nón cho tôi như đã hứa. Những hôm mưa, tôi đem ra đội và ngồi thu lu nhìn ra khu vườn trong hơi ấm từ chiếc nón phả ra. Tôi thấy ấm lòng hẳn. Tôi hay nghĩ ngợi nếu có bé Thương, chắc cô Hồng sẽ đan cho nó nhiều cái như vậy, những chiếc nón thật đẹp. Nếu là con gái sẽ thêm nhiều cái tua, những tua xanh đỏ như tôi vẫn thường thấy người ta bán ngoài chợ.

Một ngày lạ, vườn tôi bỗng xuất hiện loài hoa mới, cánh vàng nhụy trắng. Tôi âm thầm chờ đợi nó lớn lên, âm thầm nâng niu như một đứa trẻ. Những bông hoa lạ luôn gây cho tôi cảm giác ai đó đã ghé khu vườn lúc tôi đang ngủ. Họ ngồi chờ mãi không được, đành gieo mầm hoa xuống đất rồi bỏ đi mà không kịp gởi gấm hãy chăm sóc giùm tôi, hãy tưới nước ngày ba lần.

Bố tôi vẫn nói phần thưởng cho người làm vườn là hoa quả.
Cuối mùa mưa, cây hoa đó nảy ra nhiều nhánh và hạt của nó đã mọc ra nhiều cây con. Tôi đã hái tặng cô Hồng đóa hoa đẹp nhất, vào một ngày đẹp nhất. Cô trìu mến nhìn tôi. Ngay cả đêm về, co mình trong chăn, tôi cũng không thể nào quên được ánh mắt ấy. Ðó là cái nhìn của một người mẹ dành cho con. Tôi đã ngủ suốt đêm ngon giấc chỉ vì cái nhìn đó.

Sáng ra, cảm giác là lạ choáng váng cả phòng. Một bàn tay ai đó đang nắm cái chân tôi, giọng nói quen quen:
- Ai đang "nướng" trong cái mền vậy cà!
Tôi hét lớn:
- Chú Hùng!
Chú cười sằng sặc dưới cái chân tôi.
- Tại sao chú không báo trước cho cháu biết chú sẽ sang đây? Cháu sẽ thức nguyên đêm chờ chú.
- Ðể làm gì vậy cà! Ai mướn vậy cà! - Chú cười khùng khục.
Lâu lắm rồi tôi quên luôn cái cảm giác ôm cổ chú, cái cần cổ của người anh hùng, to lớn, vững chãi.
Tôi nói:
- Lâu rồi, cháu chưa được ôm cái cổ của chú. Chú cũng không chịu ăn cái chân của cháu nữa.

Mẹ tôi nói khi chú Hùng sang đây tức là chú đã nguôi ngoai chuyện bé Thương.

Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 6

Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
11. Người khách lạ đến viếng khu vuờn


Mấy hôm nay hình như có ai đến vườn nhà mình. Bố đi làm đồng về thông báo.
- Sao bố biết?
- Hôm qua, bố nghe tiếng động rất lạ. Khi bố đi ra thì một tiếng soạt rất lớn rồi im luôn. Nhưng mấy lùm cây còn run dữ lắm.
Mẹ tôi cũng thông báo một chuyện tương tự. Tôi rình suốt hai ngày trời không thấy gì. Nhưng đến ngày thứ tư đi học về, lại nghe bố nói:
- Hôm nay họ lại đến!

Quái lạ! Tôi đi ra vườn. Ngoài vườn mọi thứ vẫn còn nguyên như những hôm trước. Tôi hẹn thằng Tí đến nhà, mỗi đứa canh một đầu, hễ nghe tiếng động thì huýt sáo báo tin cho nhau. Chờ mãi chẳng thấy con ma nào. Tôi gọi thằng Tí cũng chẳng nghe nó đáp. Thì ra nó bỏ về từ đời tám hoánh nào rồi. Cái thằng thiếu kiên nhẫn. Tôi gọi thằng Toàn sang. Nó hỏi bắt trộm hả. Tôi gật đầu. Nó ôm một khúc cây to bảo gặp ăn trộm sẽ chọi vào giò nó. Lại chờ. Chờ mãi. Chờ đến lúc chẳng ai nói với ai đồng lúc bỏ cuộc.
Bẵng đi vài hôm, bố tôi lại thông báo:
- Có ai đó khoét hàng rào nhà mình một lỗ rất to.
Tôi chạy ra xem cứ rùng cả mình. Dứt khoát phải có một ai đó hoặc một con gì đó rất lớn. Bố nói nếu tôi canh chỗ này thì sẽ gặp.

Ở lớp, tụi bạn nó đồn nhà tôi có ma. Một con ma ban ngày. Nó vào vườn rồi ăn hết cả hoa. Không những thế, con ma còn chọc ghẹo bố tôi khiến bố tè trong quần mà chạy. Có đứa còn hỏi thẳng, con ma có bóp cổ bố mày không, sao tao thấy mặt bố mày tím tím.
Tôi ức lắm nhưng chẳng có cách gì nói cho chúng tin, đành hậm hực về méc bố, tưởng được bênh, ai ngờ bố cười ngất. Những buổi trưa, khi bọn chúng rủ nhau thụt thò trước ngõ nhà tôi thì trong nhà, bố tôi vờ rên hừ hừ như bị ma nhập. Thế là bọn chúng chạy "bắn khói".
Mẹ nói, cho dù có quỉ cũng không vật nổi bố. Tuy vậy, tôi vẫn uất ức kinh khủng.

Một buổi trưa khác, sau khi đi học bị tụi bạn chọc tơi bời, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn ra khu vườn. Bất ngờ, tôi thấy lùm bông lài run lên. Những chiếc lá lay động dữ dội. Tôi vội vàng bò ra nhà sau. Mẹ và bố còn ở ngoài đồng khiến tôi chột dạ, không biết có nên bò ra ngoài vườn không. Bỗng dưng tôi thèm có thằng Toàn khủng khiếp. Cuối cùng lấy hết sức mạnh, tôi bò về phía bụi lài.

Từ bên đây cây hoàng lan, tôi thấy rõ ràng một cái đầu nhô lên, đen thui một chỏm tóc. Tôi bò đến gần nữa thì bất ngờ nhận ra thằng cháu lão ăn xin. Nó vào vườn nhà tôi để làm gì vậy, thật không hiểu nổi.

Sau khi nhìn tới nhìn lui, nó có vẻ khoan khoái lắm ngồi xuống, mở túi lấy ra hộp diêm nhỏ. Thì ra nó đi hái cỏ tươi cho món quà của người khách lạ là chúng tôi. Nó đặt hai bao diêm xuống bãi cỏ, sau đó ngắt từng ngọn cỏ non, xé nhỏ rồi bỏ vào. Xong xuôi mọi chuyện, nó cất hai bao diêm vào túi rồi chui vào bụi lài. Nó hái những bông hoa trắng để lên khắp người của mình. Và cứ như thế... nó ngủ. Giấc ngủ đến với nó thật nhẹ nhàng và không hiểu nổi.
Tôi đi nhẹ đến gần, nghe hơi thở đều đều và những bông lài nhấp nhô như gợn sóng. Chẳng hiểu sao, tôi bỏ vào nhà. Con ma là như vậy.

Chú Hùng hay kể cho tôi nghe về những người khách lạ thường ghé khu vườn nào đó chỉ vì những bông hoa. Có ngờ đâu, không phải là cổ tích.



Vừa Nhắm Mắt Vừa Mở Cửa Sổ
12. Ngày bí mật


Mẹ ơi! Tôi chạy vụt về nhà. Cô Hồng đau bụng dữ lắm. Cô nói cô sắp sinh em bé, bảo con gọi mẹ gấp.
- Thế chú Hùng đâu?
- Chú Hùng đi ruộng rồi!
Mẹ tôi chạy sang nhà cô Hồng, tóc vụt xõa tung. Ngay cửa ra vào, cô Hồng đang quằn quại bò càng trên nền nhà, tay cô nắm chặt gấu áo, mồ hôi đầm đìa.
- Con lấy giỏ đồ cô Hồng để dưới gầm giường cho mẹ nhanh lên.
Tôi vội chạy vào buồng. Khi quay ra đã thấy mẹ ẵm cô Hồng đặt vào đống rơm lót sẵn trong xe bò:
- Hây... hây...
Mẹ hét lên như những gã cao bồi thứ thiệt. Con bò lao tới, bổ nước kiệu. Chẳng mấy chốc đã ra đến ngõ.
- Con chạy đi gọi chú Hùng, nói mẹ chở cô Hồng xuống trạm y tế.

Tôi ù té chạy ra đồng. Từ đằng xa đã thấy cái lưng bóng nhẫy của chú:
- Cô Hồng đẻ rồi!
- Cái gì? Chú Hùng hoảng hốt. Sao mà lẹ vậy!
- Mẹ cháu đã chở cô xuống trạm y tế.
Chiều hôm đó tôi, con Phượng, thằng Tí đi bộ xuống trạm. Bố tôi sai tôi xách cơm cho mẹ và chú Hùng, còn tụi kia đi theo chỉ vì nhiều chuyện. Trong sân, chú Hùng đi đi lại lại, mặt đen xì. Chú cũng không cười với tôi.

Cô Hồng sinh em bé thiếu tháng. Mẹ nói đáng lý phải 9 tháng 10 ngày nhưng chẳng hiểu làm sao, chưa đầy 8 tháng "nó" đã đòi ra. Cô Hồng đau dữ lắm. Ðến nỗi bác sĩ giỏi nhất trạm y tế phải chạy lại chăm sóc cô.

Ðứng dưới gốc cây, mắt chú Hùng đỏ hoe. Tôi chưa bao giờ thấy chú như vậy, đây là lần đầu. Chú không hề rên rỉ cũng không kêu hu hu, chỉ chớp mắt liên tục. Lâu lâu lấy tay quệt vài giọt nước mắt rồi quay đi chỗ khác.

Tôi còn nhớ hôm trước, chú hỏi tôi đặt tên em bé là gì thì tôi mới thương. Tôi nói đặt tên em bé là Thương thì ai cũng phải thương cả. Chú nói ừ há, chú cũng thích cái tên đó, con gái hay con trai đều hợp. Chú nói nếu đẻ con gái sẽ làm cho nó cái nôi hình bông hoa, còn con trai thì hình con ngựa. Tôi nói sẽ giữ em bé giùm chú, nhưng với điều kiện chú phải sang thăm tôi vào mỗi buổi sáng. Chú gật đầu bảo, làm sao chú quên được người láng giềng.

Từ trong hành lang, một bác sĩ đi ra, hỏi:
- Có ai nhóm máu O không? Cô ấy đang thiếu máu, cần phải truyền gấp.
- Làm sao biết tôi máu gì? - Chú Hùng òa khóc.
Mẹ tôi hét vào tai tôi:
- Chạy về kêu bố nhanh lên, có việc khẩn.
Tôi băng đồng chạy về nhà. Thì ra bố máu O. Có một lần bố bị bệnh nên mẹ biết. Người ta đưa bố vào phòng, nửa tiếng sau vẫn không thấy ra. Chú Hùng định lỏn vào nhưng bị chận lại.
Chú quát lớn:
- Vợ tôi đang chết, các người không cho vào hay sao!
Cuối cùng người ta phải cho chú vào vì chú gây ầm ĩ quá nhiều. Một phần chú khỏe lắm, không có cái cửa nào có thể khép trước mặt chú được.

Những người trong xóm cũng đã hay tin, kéo đến trạm y tế đông nghẹt. Họ ngồi im lặng và chờ đợi, trong khi căn phòng lạnh lẽo vẫn tiếp tục đóng cửa im ỉm.
Hàng giờ trôi qua trong tiếng gào thét của cô Hồng. Rồi cửa xịch mở, bố tôi đi ra, mặt tái xanh. Trước đó bố khỏe bao nhiêu thì giờ đây yếu ớt bấy nhiêu. Bố trèo lên xe bò rồi nằm vắt trên đó. Mẹ mua cho bố bịch sữa. Bố uống lấy uống để như một kẻ khát nước.
Bố nói:
- Không sao cả. Một chút sẽ khỏe lại. Con bé mất máu nhiều quá, hy vọng là nó qua.
Mẹ tôi im lặng nhưng khuôn mặt xanh xao thấy rõ. Mái tóc đen đúa đổ dài, dài kinh khủng. Từng sợi từng sợi bay lất phất như một bóng ma. Có một ai đó cột tóc cho mẹ, nói:
- Không sao đâu. Ai làm mẹ chẳng trải qua chuyện này. Rồi mọi thứ sẽ qua thôi.
Con Phượng kéo tôi ra một góc:
- Có phải cô Hồng chết không?
- Làm sao tao biết được. Tôi trả lời. Hồi nãy còn nghe cô la dữ lắm, bây giờ tự nhiên chẳng nghe thấy gì. Mẹ tao khóc, chắc là có chuyện lớn. Cả chú Hùng cũng khóc nữa, có đời nào chú Hùng khóc đâu.
- Sao tao nghi quá à!
- Ừ, tao cũng vậy. Hồi nãy chạy về gọi bố, tao có tạt qua chỗ ông Tư nằm.
- Ông Tư làm sao?
- Ông kêu tao có cách gì đưa ông đến trạm y tế không? Tao đâu dám nói thiệt. Chỉ nói có mẹ và bố ở đó rồi. Ông dặn tao nếu có chuyện gì chạy về cho ông hay liền.
- Thôi đừng chạy về chớ!
Cửa phòng xịch mở, chú Hùng ngơ ngác đi ra. Vừa thấy bố tôi, chú ôm chặt rồi khóc ngất:
- Nó chết rồi anh ơi!
Bố tôi quát lên:
- Mày nói ai chết?
- Nó chết.
- Nó là đứa nào?
- Con bé Thương!
- Từ từ nào. Bố vỗ vỗ nhè nhẹ lên vai chú như dỗ dành một đứa bé. Ðể xem lại đã...
- Nó chết thật rồi. Bác sĩ đã gói vào một miếng vải.
- Thế vợ mày làm sao rồi?
- Nó cứ nằm im như vậy.
- Nó còn sống chứ?
- Còn. Bác sĩ bảo em ra ngoài đừng gây kinh động cho cô ấy.

Im lặng và thở dài. Vài người đàn bà cùng với mẹ tôi chạy vào với cô Hồng.
Bố tôi nói:
- Cứng rắn lên. Mày mà như vầy thì sao con Hồng sống nổi. Rồi sẽ có những đứa con khác. Chúng mày còn trẻ mà. Mày phải giúp nó vượt qua. Người đàn ông cần nhất là lúc này đó.
Ba hôm sau chú Hùng chở cô Hồng về. Cô được trùm trong chiếc mền lớn. Mẹ ngồi với cô còn chú Hùng thì đánh xe. Tôi chạy tắt về nhà mở cổng thật rộng. Những người trong xóm cũng ra đứng chờ cô.

Tôi vẫn còn nhớ mẹ thường hay nói với tôi, khi một ai đó buồn, họ cần rất nhiều người để chia sẻ. Nỗi buồn chỉ vơi đi bằng tình thương chứ không có một phương thuốc nào hết. Khi chia sẻ một nỗi buồn, chúng ta sẽ không buồn hơn, nhưng người khác lại vui hơn. Và đừng bao giờ quay lưng lại với một con người như vậy. Họ cần những khuôn mặt hơn là những viên thuốc. Họ cần những bàn tay, những tô cháo, những quả ổi hái để đầu gường. Họ cần mỗi buổi tối ghé lại ngồi với họ trong im lặng. Họ cần chúng ta dẫn họ lên đồi cuốc một mảnh vườn, và thỉnh thoảng hỏi có thích ăn bắp rang không...

Xe đã đậu trong sân. Chú Hùng ẵm cô Hồng vào nhà. Tôi chạy theo. Khuôn mặt cô xanh xao nhìn kinh sợ lắm. Mẹ tôi lấy cái gối dằn cho cô rồi đốt một lò than.
Mẹ nói lớn:
- Cái thằng Hùng này, lựa than gì mà khói nhiều quá. Kiểu này hấp người ta không bằng.
Mẹ nói vậy thôi, chẳng thấy khói gì cả. Ðể lò than xuống gầm gường, mẹ sai chú Hùng đào củ gừng. Rồi mẹ lấy chổi ra quét nhà soàn soạt.
Mẹ nói:
- Ðóng cái cửa này lại, gió độc lắm!

Mẹ sai chú Hùng mua cá về kho khô. Mẹ bảo cột con bò lại coi chừng nó ăn đám mì. Mẹ xuống nhà bếp khua chén rổn rảng. Mẹ xắn ống tay áo lên, sắp đặt mọi việc một cách ồn ào.
Mẹ nói:
- Cứ làm như vậy cho tôi, còn mọi việc tôi lo. Mấy anh đàn ông cứ là vô tích sự!
Tôi đến ngồi bên cô Hồng. Cô nắm chặt lấy tay tôi.
Tôi nói:
- Chừng nào cô khỏi bệnh, cô đan cho con chiếc nón len nhé. Con thích chiếc nón có nhiều tua và cái mũi dài dài.
Cô gật đầu. Tôi nói tiếp:
- Cô có thích ăn bắp rang không?
Cô lắc đầu nhưng mỉm cười với tôi.
Mẹ nói:
- Con đừng hỏi cô nữa, để cô nghỉ mệt.
Tôi đi ra ngoài nhưng vẫn nhớ nụ cười đó, bởi vì nó là nụ cười đầu tiên từ lúc cô đánh mất em bé. Một nụ cười trên khuôn mặt buồn.

Chiều tối mẹ mới về nhà với vẻ mệt mỏi. Ngồi trên bậc cửa, mẹ lấy lược ra gỡ tóc. Mẹ cứ chải mãi, chải mãi. Bố thắp đèn lên rồi mắc cái võng ra nằm. Tôi đến ngồi gần nhưng mẹ chẳng hay, có vẻ đang nghĩ ngợi cái gì đó. Lâu lâu lại thở dài. Tôi nhìn ra ngoài đường thấy gió cứ thổi suốt. Những ngọn cây như dính lại với nhau trong cái màu tối tối. Ðêm nay, nếu như trời không mưa, lúc 8 giờ trăng sẽ sáng lắm. Còn như nếu trời mưa thì tiếng đưa võng của bố sẽ không còn nghe thấy nữa. Những giọt mưa trên mái nhà luôn ồn ào, nhưng nếu nó không ồn ào có lẽ tôi sẽ không còn thích chúng.

Tôi nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hồi chiều cô Hồng cười với con!
- Ừ. Cô nhắc con mãi đó.
- Cô còn hứa sẽ đan cho con cái nón len.
- Ừ!
- Mẹ có tin cô Hồng sẽ hết buồn khi ngồi đan nón không?
- Mẹ tin.
- Nhưng chú Hùng sẽ không hết buồn. Con thấy chú ra nhà sau ngồi một mình. Chú cũng chẳng thèm cột con bò.
- Không sao đâu con.
- Ngày mai con sang chơi với cô Hồng được không?
- Ðược. Nhưng con phải hỏi cô có đồng ý không đã.
- Con biết rồi.

Trăng đã lên, sáng vằng vặc. Có nghĩa là trời không mưa. Những đám mây trắng tinh như gấu bông bay nhởn nhơ; lúc thì bay qua, lúc thì bay lại, có lúc dồn ép vào nhau như những núi tuyết. Lại có một đám mây như hình em bé trôi nhẹ đi, cổ quàng một chiếc khăn lớn. Mặt trăng tròn vành vạnh nhô ra ở giữa như cái nôi bập bềnh, lúc thì lồng bên dưới đứa trẻ, lúc thì chạy lên phía trên không thể nào đoán trước được. Người ta nói trong mặt trăng có chị Hằng. Chị đẹp lắm nên lúc nào cũng giấu mặt trong những lưới mây. Tôi chỉ thích trong mặt trăng có một đứa bé như con cô Hồng chẳng hạn. Một đứa bé sẽ làm cô Hồng cười khi từ trạm xá về, chú Hùng sẽ không khóc, mọi người đến thăm có cái để bồng, để ha hả. Người ta sẽ không né câu hỏi: "Em bé đâu rồi?". Người ta sẽ nói: "Cho tôi ẵm bé Thương một chút coi". Cô Hồng sẽ có cớ lâu lâu than phiền: "Dạo này con bé quậy quá. Em chẳng ngủ gì được". Chú Hùng đi làm về sẽ hỏi: "Con gái tui ở nhà có hư không?", hoặc sẽ đùa: "Cô ở đâu mà cứ đến nhà tui khóc nhè vậy cà!".

Mẹ tôi nói một đứa bé sẽ trao cho người phụ nữ một cái quyền thiêng liêng nhất, quyền làm mẹ. Không có đứa bé, họ sẽ không được làm mẹ. Họ sẽ đau khổ lắm. Họ sẽ thấy mình mất đi một nửa cuộc đời. Bởi cuộc đời người phụ nữ luôn gắn liền với những đứa bé, là kho báu quí giá không có gì có thể đánh đổi với họ.
- Rồi cô Hồng sẽ có em bé khác chứ mẹ?
- Ừ. Nhưng cô sẽ không bao giờ quên được bé Thương. Một người mẹ luôn yêu tất cả các con mình dù cho nó không còn có mặt.

Tôi ôm chầm lấy mẹ. Tôi biết mẹ sung sướng hơn cô Hồng vì mẹ có em bé là tôi. Những lúc có khách lạ đến nhà, mẹ sẽ hãnh diện nói: "Con tôi đó, con trai, một thằng lỳ ơi là lỳ...", và mẹ sẽ mỉm cười vì hạnh phúc.

Tôi sang thăm cô Hồng. Cô ngồi đan nón, mắt buồn so. Cô buồn vì không được làm mẹ. Chú Hùng cũng đã bỏ dở việc ruộng rẫy, ở nhà quanh quẩn. Chú đi ra đi vào bứt rứt vì không được làm bố. Nhìn cô đan len, tôi chợt thấy cô thật giống mẹ tôi, dịu dàng từng đôi tay một. Bàn tay đó khi ẵm đứa bé thì vững vàng, khi làm lụng thì khéo léo. Bàn tay của người đàn ông sẽ không được như vậy.

Tự dưng tôi muốn nói với cô như vầy: "Cô Hồng ơi, tối hôm qua con thấy bé Thương. Nó núp trên mặt trăng. Nó đẹp lắm. Mặt sáng bừng như có điện". Nhưng tôi chỉ nói: "Cô Hồng ơi, đêm qua trong giấc mơ của con có cả cô nữa".